f3051eb70b962b646ad926757115bce0_L

ĐỀ NGHỊ ĐIỀU TRA BỔ SUNG VỤ AGRIBANK CHI NHÁNH 6 MẤT 966 TỶ ĐỒNG

Đề nghị điều tra bổ sung vụ Agribank Chi Nhánh 6 mất 966 tỷ đồng

TTO – Nhiều luật sư bào chữa cho các bị cáo nguyên là cán bộ, lãnh đạo Ngân hàng Agribank CN6 cho rằng vụ án cần làm rõ thêm một số nội dung

Luật sư đang bào chữa cho các bị cáo
Luật sư đang bào chữa cho các bị cáo

Tiếp tục xét xử 11 bị cáo trong vụ thất thoát 966 tỉ tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn VN (Agribank) Chi nhánh 6, ngày 29-10, nhiều luật sư bào chữa cho rằng cáo trạng quy kết tội danh cho các bị cáo là chưa thỏa đáng.

Số 10 Âu Cơ do Dương Thanh Cường bán từ trước?

Trong phần bào chữa cho bị cáo Dương Thanh Cường (tổng giám đốc Công ty TNHH đầu tư xây dựng Tấn Phát), luật sư Nguyễn Đăng Trừng cho rằng cơ quan điều tra chưa làm rõ nguồn tài sản được thế chấp và hoán đổi giữa số 10 Âu Cơ và 38ha đất ở Long An cũng như 23 giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại huyện Bình Chánh.

Bởi vậy theo luật sư Trừng, việc kết tội Cường lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là chưa thỏa đáng.

Luật sư Trừng cũng cho rằng việc VKS luận tội khẳng định Dương Thanh Cường đã gán nợ thửa đất số 10 Âu Cơ cho Ngân hàng Phương Nam là không đúng, bởi trước thời điểm bị kết luận là gán nợ thì Dương Thanh Cường đã bán đất cho Công ty Thảo Loan.

Cho rằng vụ án còn nhiều tình tiết chưa được làm rõ, luật sư Nguyễn Đăng Trừng đề nghị hội đồng xét xử hoàn trả hồ sơ vụ án để điều tra lại, làm rõ đường đi của các tài sản này.

Trước đó, trong phần luận tội, đại diện VKS cho rằng bị cáo Dương Thanh Cường đã lập nhiều công ty và hai lần vay tiền của Agribank CN6 với số tiền 798 tỉ đồng.

Sau đó Cường đã lừa dối các cán bộ Agribank CN6 mượn lại các giấy tờ thế chấp để mang sang Ngân hàng Phương Nam vay tiền.

Luật sư Trần Giáng Hương bào chữa cho bị cáo Lê Thành Công – nguyên tổng giám đốc Công ty Dệt kim Đông Phương – cũng cho rằng Công không phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản của Dương Thanh Cường (thông qua Công ty Bình Phát), đề nghị hội đồng xét xử xem lại tội danh.

Luật sư Nguyễn Đăng Trừng bào chữa cho bị cáo Dương Thanh Cường
Luật sư Nguyễn Đăng Trừng bào chữa cho bị cáo Dương Thanh Cường

Đề nghị chuyển tội danh cho bị cáo Hồ Đăng Trung

Bào chữa cho bị cáo Hồ Đăng Trung – nguyên giám đốc Agribank CN6 (bị VKS đề nghị án 20 năm tù), luật sư Phan Trung Hoài đề nghị hội đồng xét xử đánh giá lại nguyên nhân, bối cảnh và các yếu tố tác động khi xem xét quá trình thực thi các quy định cho vay của Agribank CN 6.

Ông Hoài cho rằng việc bị cáo Trung duyệt cho vay đối với dự án hình thành trong tương lai là có khả năng thực hiện.

Theo cáo buộc của VKS khi luận tội, bị cáo Trung đã vi phạm quy định về  cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng như duyệt cho vay không đúng, cho Dương Thanh Cường mượn lại giấy tờ thế chấp dẫn đến việc Agribank CN6 thất thoát 966 tỉ đồng.

Luật sư Hoài đề nghị tòa xem xét chuyển tội danh của ông Hồ Đăng Trung tội vi phạm quy định cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng sang tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Đồng thời, luật sư Phan Trung Hoài cho rằng kết quả điều tra cho thấy việc cho mượn tài sản thế chấp là phù hợp với quy định của pháp luật.

Tuy nhiên, do yếu tố thiếu trách nhiệm của cán bộ liên quan, dẫn đến hậu quả tạo điều kiện cho ông Dương Thanh Cường thực hiện hành vi gian dối, sử dụng tài sản thế chấp tiếp tục thực hiện hành vi gian dối đối với Ngân hàng TMCP Phương Nam.

Do đó, giao dịch Ngân hàng Phương Nam xuất phát từ giao dịch vô hiệu do dùng thủ đoạn gian dối mượn giấy tờ quyền sử dụng đất đang thế chấp tại Agribank CN 6 để mang đi thế chấp tại Ngân hàng Phương Nam, cần được giải quyết chung trong vụ án này, không thể tách ra xử lý sau vì sẽ làm sai lệch bản chất, sự thật khách quan của vụ án.

Phiên tòa vẫn đang tiếp tục.

HOÀNG ĐIỆPNguồn: Báo Tuổi Trè

 

dd9b4b0a80eff28fc65a7f105431f022_L

CÓ HAY KHÔNG BÀ NGUYỄN THỊ HƯƠNG LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN?

 

Mới đây, Toà án nhân dân huyện Tuy Đức, tỉnh Đắc Nông đã trả hồ sơ lần thứ 3 để điều tra bổ sung đối với bị can Nguyễn Thị Hương và Lê Văn Bằng ngụ tại xã Đắc Ngo huyện Tuy Đức, Đắc Nông. Viện kiểm Sát nhân dân huyện Tuy Đức đã có cáo trạng kết luận là bà Nguyễn Thị Hương và Lê Văn Bằng đã đưa ra những thông tin gian dối để thực hiện 02 hợp đồng khai đá và sang nhượng đất để chiếm đoạt số tiền 30 triệu đồng của Công ty TNHH Đá Đại Nguyên Phát do bà Lê Thị Mai Phương làm giám đốc và số tiền 45 triệu đồng của bà Đặng Thị Ngọc Thắm.

Từ những giao dịch dân sự bình thường…

Theo cáo trạng VKSND huyện Tuy Đức, ngày 17-6-2009, ông Trần Văn Trọng và ông Bùi Văn Ánh có đến khu đất rẫy của bà Nguyễn Thị Hương để khảo sát trữ lượng đá. Hai ông thoả thuận đưa bà Hương 52 triệu đồng tiền đền bù hoa màu đổi lại bà Hương cho ông được quyền đào khai thác đá trong diện tích 2 ha đất rẫy trong thời hạn 1 năm. Cùng ngày, hai bên đã ký hợp đồng khai thác đá, nội dung hợp đồng nêu rõ “Chúng tôi đồng ý bán cho ông Trần Văn Trọng và ông Bùi Văn Ánh với diện tích 2 ha đất để đào lấy đá, khi khai thác xong bên mua sẽ phải hoàn trả lại diện tích đất trên đồng thời phải san lấp lại mặt bằng cho gia đình chúng tôi. Thời gian là 1 năm”. Sau đó, ông Trọng và ông Ánh yêu cầu vợ chồng bà Hương làm giấy bán đất để hai ông đi làm thủ tục khai thác đá. Nhưng sau đó ông Ánh không xin được phép khai thác đá. Và hai ông không liên lạc gì với bà Hương nữa.

Ngày 05-2-2010, ông Nguyễn Hữu Hiện – giám đốc Công ty TNHH Thiện Phú chuyên khai thác đá có đến đề nghị bà Nguyễn Thị Hương và ông Lê Văn Bằng cho khai thác đá xây dựng và đá bazan tận thu với số tiền là 50 triệu trên diện tích đất khoảng 2 ha nằm liền kề lô 242 thuộc đất rẫy của vợ chồng bà Hương. Ông Hiện trả cho bà Hương là tiền thỏa thuận hỗ trợ thiệt hại hoa màu, cây trồng trên đất cho bà Hương nhưng hợp đồng ghi là Giấy sang nhượng đất để công ty ông Hiện đi xin phép khai thác đá. Ông Hiện mới chỉ đặt cọc cho bà Hương số tiền 30 triệu đồng. Sau khi ký hợp đồng, tháng 7/2010, ông Hiện có đưa máy vào khai thác đá được khoảng 200 khối đá thì rút máy về và không tiếp tục khai thác nữa vì cho rằng đá không đạt tiêu chuẩn.

Ngày 04-6-2010 bà Nguyễn Thị Hương và ông Lê Văn Bằng có ký giấy thỏa thuận với nội dung là để cho ông Lê Hồng Phước – chủ doanh nghiệp tư nhân Hai Phước tận thu đá bazan trên mảnh vườn nhà bà Hương thuộc đất liền kề lô 263, với diện tích khoảng 4 ha với giá tiền 200 triệu đồng. Ông Lê Hồng Phước có ứng trước số tiền 20 triệu đồng cho vợ chồng bà Hương. Sau khi ký giấy thỏa thuận, ông Phước không đến khai thác đá như đã thỏa thuận và cũng không tiếp tục đưa tiền cho bà Hương theo như đã cam kết là số tiền 200 triệu.

Bà Hương nhận thấy các hợp đồng khai thác đá đã ký nêu trên đã quá thời hạn trên hợp đồng và các chủ khai thác đá đều bỏ cuộc và không đến liên hệ gì với  bà Hương nữa. Nên ngày 29-01-2011, một người môi giới đã đưa ông Ha – người Hàn Quốc (công ty TNHH Đá Đại Nguyên Phát ) đến khảo sát và ký hợp đồng với bà Nguyễn Thị Hương. Theo đó, cứ  mỗi tháng khai thác đá bên công ty TNHH Đá Đại Nguyên Phát trả cho bà Hương 20 triệu đồng tiền bồi thường hoa màu trên 8 ha đất rẫy của bà Hương. Sau khi ký kết hợp đồng, ông Ha (người Hàn Quốc) có trực tiếp đưa tiền đặt cọc cho bà Hương số tiền 30.000.000 đồng là để cho bà Hương nhờ người đi xin giấy phép khai thác đá. Bà Hương cũng đã nói với ông Ha về việc có ký hợp đồng bán đá với các ông Trọng, Ánh, Hiện, Phước. Ông Ha biết và vẫn đồng ý ký hợp đồng với bà Hương thông qua Công ty TNHH Đá Đại Nguyên Phát do Lê Thị Mai Phương làm giám đốc.

Tuy nhiên, sau khi ký kết hợp đồng và nhận tiền đặt cọc bà Hương đã nhiều lần liên lạc với phía ông Ha và bà Mai Phương nhưng đều không liên lạc được. Suốt thời gian từ khi ký hợp đồng là ngày 29-01-2011 cho đến khi công ty Đá Đại Nguyên Phát giải thể vào ngày 17-6-2013, phía công ty Đại Nguyên Phát cũng không cho người quay lại tìm vợ chồng bà Hương để tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Tiếp đó, ngày 07-6-2013, bà Hương có viết giấy sang nhượng đất bờ lô nằm dưới thung lũng giáp con suối với vợ chồng bà Đặng Thị Ngọc Thắm, với diện tích đất ước lượng sang nhượng là 1,2 ha thuộc đất liền kề lô 263 với số tiền là 45 triệu đồng.

Bị qui kết tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Vợ chồng bà Nguyễn Thị Hương vẫn tiếp tục làm rẫy, canh tác đất, trồng hoa màu và các bên không ai thưa kiện gì. “Đùng một cái”, bà Nguyễn Thị Hương bị Công an huyện Tuy Đức khởi tố và bắt tạm giam ba tháng vì tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Theo kết luận điều tra, thì việc bà Hương đã cho các ông Trọng, Ánh, Hiện, Phước thuê đất để khai thác đá và sau đó lại ký hợp đồng cho công ty Đại Nguyên Phát khai thác đá trùng lên các thửa đất đã cho bốn người trên thuê là có  hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Mặc dù đất bà Thắm ở cạnh bìa suối chẳng liên quan gì đến 8 ha mà công ty Đá Đại Nguyên Phát đặt cọc nhưng không hiểu vì sao Công an huyện Tuy Đức cũng đưa vào để tăng số tiền trong vụ án từ 30 triệu đồng lên 75 triệu đồng và truy tố theo khoản 2 Điều 139 Bộ luật hình sự.

Theo cơ quan điều tra, diện tích vợ chồng bà Nguyễn Thị Hương khai hoang mở rộng diện tích bờ lô là 7,9 ha. Số đất này bà Hương đã cho các ông Trọng, Ánh, Hiện, Phước thuê đất để khai thác đá và tiếp đó cũng trên diện tích đất này bà Hương đã ký hợp đồng khai thác đá với công ty TNHH Đá Đại Nguyên Phát. Cũng theo cơ quan điều tra, việc bà Nguyễn Thị Hương sang nhượng 1,2 ha đất (thực tế đo là 0,7ha) cho bà Thắm cũng trùng vào trong đất bà Hương cho Công ty TNHH Đá Đại Nguyên Phát khai thác đá! Thực tế, các giấy tờ viết tay giữa các bên giao dịch với nhau chỉ ước lượng diện tích và cũng không ghi tứ cận giáp ranh đất của ai để định vị vị trí ranh khu đất. Các bên cũng không thuê đơn vị đo vẽ hiện trạng, cắm ranh, cắm mốc khi tiến hành các giao dịch. Do vậy, khó có cơ sở cho rằng đất của bà Thắm đã chồng lên đất của Công ty TNHH Đá Đại Nguyên Phát thuê. Bà Thắm rất ngạc nhiên, vì tự nhiên bà được mời ra tòa với tư cách người bị hại. Vì từ ngày bà Thắm nhận chuyển nhượng 1,2ha đất liền kề của bà Hương, bà Thắm vẫn canh tác từ năm 2013 đến nay mà không có bất cứ tranh chấp nào.

Mặt khác, căn cứ trên tờ bản đồ về kết quả đo đạc thực tế và đối chiếu với quyết định số 140 QĐ-UBND tỉnh Đắc Nông (BL120), qua xác định tại lời khai của bà Hương tại phiên tòa sơ thẩm mở lần thứ hai ngày 30-11-2015, thì toàn bộ lô đất mà bà Hương chuyển nhượng cho bà Thắm là hoàn toàn không nằm trong lô đất đã ký hợp đồng khai thác đá cho Công ty TNHH Đá Đại Nguyên Phát là gần 8 ha. Vì toàn bộ diện tích thửa đất có trữ lượng đá bazan mà bà Hương cho công ty TNHH Đá Đại Nguyên Phát thuê nằm trên đỉnh đồi, còn vị trí đất mà bà Hương chuyển nhượng cho bà Thắm nằm ở dưới ven suối.

Như vậy, đối với hợp đồng mà vợ chồng bà Hương ký kết với công ty TNHH Đá Đại Nguyên Phát mà bà Lê Thị Mai Phương làm giám đốc vào ngày 29/01/2011, thì sau khi đặt cọc, phía bên công ty Đá Đại Nguyên Phát đã không quay trở lại để tiếp tục thực hiện hợp đồng, như vậy là hợp đồng mua bán đá đã không được thực hiện, bên Công ty Đá Đại Nguyên Phát đã đơn phương chấm dứt hợp đồng, vì vậy toàn bộ diện tích đất liền kề lô 242 và lô 263 vẫn thuộc về quyền sử dụng của bà Hương. Bà Hương và ông Bằng vẫn có toàn quyền sử dụng và khai thác và định đoạt đối với lô đất này.

Việc bà Hương nhận số tiền cọc 30 triệu đồng là do phía Công ty Đá Đại Nguyên Phát tự nguyện đưa và tự nguyện ký kết hợp đồng với bà Hương sau khi ông Ha đã tìm hiểu về trữ lượng đá có trong 8 ha đất mà bà Hương đang canh tác. Ở đây hoàn toàn không có việc bà Hương và ông Bằng đưa ra thông tin gian dối để lừa đảo chiếm đoạt tiền của Công ty TNHH Đại Nguyên Phát.

Luật sư Trần Giáng Hương – Văn phòng luật sư Tam Đa thuộc đoàn luật sư TPHCM khẳng định việc ký kết hợp đồng mua bán đá của vợ chồng bà Hương và ông Bằng với các khách hàng chỉ là những giao dịch dân sự bình thường, chứ hoàn toàn không phải là hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản như bản cáo trạng đã cáo buộc. Bà Hương và ông Bằng không phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài được qui định tại Điều 139 Bộ Luật Hình sự.

Thời gian gần đây, nhiều vụ hình sự hoá các quan hệ hành chính, giao dịch dân sự đã xảy ra mà dư luận đang quan tâm như vụ Công an huyện Bình Chánh TPHCM khởi tố và Viện kiểm sát huyện Bình Chánh truy tố ông Nguyễn Văn Tấn – chủ quán cà phê “Xin chào” vì kinh doanh chưa xin phép, rồi ông Nguyễn Văn Bỉ xây chòi vịt không phép tại huyện Bình Chánh. Ở tỉnh Đồng Nai có bà Nguyễn Thị Ánh Ngọc tố cáo cát tặc bị Viện KSND huyện Nhơn Trạch truy tố vì tội chống người thi hành công vụ. Cả ba vụ trên đã bị đình chỉ vụ án. Nay đến vụ vợ chồng nông dân bà Nguyễn Thị Hương ở Đắc Nông bị khởi tố tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, điều lạ là các bên mua bán đá với bà Hương cho rằng họ không bị lừa.

Trần Thanh – Trần Quỳnh

(Nguồn: Báo Kinh doanh & Pháp Luật)

 

6964130a6e5a2ce8c5a7fab6251afd2e_L

GIAO LƯU TRỰC TUYẾN: QUY ĐỊNH CHẾ ĐỘ TÀI SẢN VỢ CHỒNG THEO LUẬT MỚI

(PL) – Theo nghị định mới 126/2014/NĐ-CP Chính phủ vừa ban hành quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình, có nhiều điểm mới quy định về chế độ tài sản của vợ chồng so với Luật Hôn nhân và Gia đình 2000.

Theo đó, bổ sung quy định về các nguyên tắc chung trong áp dụng chế độ tài sản của vợ, chồng, trong đó vợ, chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Nghị định 126/2014/NĐ-CP quy định khá cụ thể về thu nhập hợp pháp khác của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân. Đó là khoản tiền thưởng, tiền trúng thưởng xổ số, tiền trợ cấp (trừ khoản trợ cấp, ưu đãi mà vợ, chồng được nhận theo quy định của pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng; quyền tài sản khác gắn liền với nhân thân của vợ, chồng)… Tất cả vấn đề trên sẽ được các chuyên gia trả lời trong buổi giao lưu trực tuyến tại báo Pháp Luật TP.HCM.

Thời gian: Lúc 9 giờ sáng thứ Năm 29-1-2015.

Địa điểm: Tòa soạn báo Pháp Luật TP.HCM, 34 Hoàng Việt, phường 4, quận Tân Bình, TP.HCM.

Khách mời: Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM; luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa.

Ngay từ bây giờ bạn đọc có thể đặt câu hỏi vào ô phía dưới:

Nội dung buổi giao lưu trực tuyến

 


Bố mẹ tôi lấy nhau trong thòi kỳ chiến tranh và được cơ quan của 2 người đồng ý, sau hòa bình bố tôi ở lại miền Nam và lấy vợ và sinh con. Lúc bố tôi đi chị em tôi mới 5, 7 tuổi, kể từ đó bố tôi không cung cấp gì để nuôi dạy chúng tôi. Bây giờ chúng tôi muốn đòi các quyền lợi có liên quan và sau này chúng tôi có được quyền thừa kế không? Cảm ơn.

 

                    nguyen van duong, dungna116@yahoo.com

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Theo quy định về thừa kế của Bộ Luật dân sự thì con sẽ được quyền hưởng thừa kế của cha hoặc mẹ mà không phân biệt con trong hay ngoài giá thú. Tuy nhiên bạn chỉ có thể được hưởng thừa kế của cha nếu cha bạn không lập di chúc định đoạt tài sản cho người khác. Trong trường hợp đó (không có di chúc hợp pháp), bạn được xác định là người thuộc hàng thừa kế thứ nhất và sẽ được chia một phần trong khối di sản do cha bạn chết để lại.


 

 

Tôi được hưởng ½ căn nhà của cha, mẹ để lại và đưa tiền cho anh tôi để lấy luôn ½ căn nhà phần còn lại. Nay tôi làm giấy tờ nhà đứng tên tôi thì cán bộ ủy ban buộc tôi phải đưa tên chồng tôi vô mới chịu nhận hồ sơ. Nếu không thì phải có ý kiến của chồng tôi (bằng văn bản) xác định đây là tài sản riêng của tôi họ mới chịu cho tôi đứng tên một mình. Sao kỳ vậy, của tôi được thừa kế riêng mà?

Hoa Tulip

Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa trả lời :

Trong trường hợp này, bạn chỉ được hưởng thừa kế hưởng ½ căn nhà, phần còn lại là thuộc về quyền thừa kế của anh trai bạn. Như vậy khi bạn bỏ tiền ra để mua ½ căn nhà còn lại của anh trai bạn, thì đây là tài sản được mua trong thời kỳ hôn nhân, nên ½ căn nhà mà bạn mua lại đó đương nhiên được coi là tài sản chung của vợ chồng, vì vậy việc anh cán bộ yêu cầu phải đưa tên của chồng bạn vào trong hồ sơ hoặc phải có văn bản xác nhận đây là tài sản riêng của bạn thì mới nhận hồ sơ là đúng pháp luật, bởi căn cứ theo Điều 33 Luật Hôn nhân & gia đình thì quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi đăng ký kết hôn là tài sản chung của vợ chồng.


 

Vừa qua, tôi có cho người bạn vay tiền để sửa nhà và bạn tôi có giao giấy hồng (do vợ chồng bạn đứng tên) cho tôi giữ làm tin. Giấy mượn tiền chỉ có bạn tôi (người vợ) ký tên. Nếu xảy ra chuyện gì tôi có quyền đòi nợ cả hai vợ chồng họ không?

Nguyễn Thị Thu Hằng, phường Linh Xuân, quận Thủ Đức, TP.HCM

Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa trả lời :

Trường hợp này, người bạn mượn tiền để sửa nhà ở chung cho cả gia đình người bạn, nên nếu sau này người bạn của bạn không trả nợ thì bạn có quyền khởi kiện để đòi nợ cả hai vợ chồng người bạn đó, bởi căn cứ theo Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ chung về tài sản trong trường hợp nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình. Điều 13 nghị định 126/NĐCP/2014 qui định “Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung do vợ chồng thỏa thuận. Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản chung để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì được coi là có sự đồng ý của bên kia”.


 

 

Chồng tôi đứng tên tài khoản gửi tiền chung của vợ chồng ở một ngân hàng. Vừa qua anh ấy chuyển tiền cho cô bạn mượn 42 triệu đồng mà không hỏi ý kiến tôi. Giao dịch này có được coi là hợp pháp hay không vì tiền chung của vợ chồng mà anh ấy chuyển khoản khoản không có ý kiến của tôi?


Phạm Thị Loan, quận 7, TP.HCM


Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa
 trả lời :

Căn cứ vào Điều 32 Luật Hôn nhân & Gia đình năm 2014 thì trong giao dịch với người thứ 3 ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên trên tài khoản ngân hàng được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó. Trong trường hợp này, chồng bạn cho cô bạn mượn số tiền là 42 triệu, nhưng không thông qua ý kiến của bạn, nếu như hai vợ chồng bạn đã có sự thỏa thuận về số tiền gửi trong ngân hàng là tài sản chung của vợ chồng thì chồng bạn phải có nghĩa vụ thông báo cho cô bạn biết. Còn nếu chồng bạn không thông báo về việc này, thì cô bạn được coi là người thứ ba ngay tình, và như vậy giao dịch được coi là hợp pháp. Điều 16 Nghị định 126/2014/NĐ-CP ngày 31/12/2014 qui định “Trường hợp chế độ của vợ chồng theo thỏa thuận được áp dụng thì khi xác lập, thực hiện giao dịch vợ, chồng có nghĩa vụ cung cấp cho người thứ ba biết về những thông tin liên quan; nếu vợ chồng vi phạm nghĩa vụ này thì người thứ ba được coi là ngay tình và được bảo vệ quyền lợi theo qui định của Bộ luật dân sự.


 

Chuyển câu hỏi luật sư Trần Giáng Hương 1. Tôi có căn nhà muốn cho con gái trước khi xây dựng gia đình. Nếu sau này cháu lấy chồng tài sản này có tính là tài sản chung của vợ chồng cháu không? Làm thế nào để căn nhà này là tài sản riêng của con gái tôi (kể cả trong quá trình hôn nhân)?

Ngọc Minh, nội trợ 46 tuổi ở TPHCM


Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa
 trả lời :

Căn cứ vào Điều 43 Luật hôn nhân & gia đình thì “tài sản riêng của vợ ,chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn”. Như vậy, căn nhà này bạn đã cho con gái của bạn trước khi cháu kết hôn, thì đương nhiên đã là tài sản riêng của con gái bạn. Nếu sau này con gái bạn lập gia đình riêng thì tài sản này vẫn là tài sản riêng của cháu, trừ khi cháu đồng ý nhập căn nhà đó vào tài sản chung của vợ chồng.

2. Tôi có mua căn nhà trước  khi lấy chồng và được Ủy ban cấp “giấy hồng” đứng tên tôi. Nay tôi lấy chồng và sắp tới vợ chồng tôi định xây lại căn nhà này. Vậy sau khi xây nhà xong xin khi cấp đổi “giấy hồng” mới thì luật có buộc tôi phải ghi tên chồng vô hay không?

Trả lời: Căn cứ vào Điều 43 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 thì tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn. Căn nhà này do bạn đã mua trước khi đăng ký kết hôn và trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở chỉ đứng một mình tên bạn, thì đây là tài sản riêng của bạn. Căn cứ theo Khoản 2 Điều 43 Luật HN&GĐ thì tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ, chồng cũng là tài sản riêng của vợ, chồng. Vì vậy, nếu sau khi bạn đăng ký kết hôn, vợ chồng bạn xây dựng lại căn nhà này và xin cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở mới thì không bắt buộc phải ghi tên chồng bạn trên giấy CNQSHNO.

               Toàn cảnh buổi giao lưu trực tuyến Quy định chế độ tài sản vợ chồng theo luật mới. Ảnh: Huyền Vi


 

 

Tôi dự định mua lại một chiếc xe ô tô của người bạn để sử dụng trong gia đình hoặc cho thuê chở khách. Tôi nghe nói theo quy định mới thì khi ký hợp đồng mua bán xe bên bán chỉ cần người đứng tên đăng ký xe ký là đủ không bắt buộc phải có vợ cùng ký tên có đúng không. Nếu sau này tôi muốn bán lại xe này thì vợ tôi có phải ký không.

Võ Công Chúng, 50 tuổi

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Về nội dung này bạn có thể tham khảo câu trả lời đối với câu hỏi có nội dung tương tự trong chuyên mục này.


 

Tôi và chồng tôi cưới nhau năm 2008, đến 2011 có bé đầu mới đăng ký kết hôn, đến nay có 02 mặt con nhưng hiện tại mẹ con tôi không có chung hộ khẩu với chồng tôi, sau này nếu ly hôn tôi có được chia tài sản không? Tất cả tài sản đều có được sau khi kết hôn (sau khi cưới nhau).


Lê Hoàng Yến Thư, 30 tuổi, Hòa Định, Chợ Gạo, TG, NN: CNV


Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa
 trả lời :

Trả lời:
Trường hợp này của bạn thì việc phân chia tài sản khi ly hôn không phụ thuộc vào việc chung hộ khẩu hay không chung hộ khẩu với chồng bạn. Việc xác định tài sản chung riêng của vợ chồng sẽ được phân chia theo qui định của pháp luật.


 

Hai vợ chồng tôi kết hôn được hơn 20 năm, tài sản chung hiện có gồm bất động sản (đứng tên vợ, chồng), tiền mặt và một doanh nghiệp tư nhân đăng ký hoạt động từ đầu những năm 2000 đến nay do tôi đứng tên làm chủ. Hiện nay tôi muốn lập văn bản chia (một phần) tài sản chung vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo đó xác định doanh nghiệp tư nhân thuộc tài sản riêng của tôi và mọi tài sản, lợi nhuận, nghĩa vụ tài chính phát sinh từ hoạt động kinh doanh hoàn toàn là tài sản cá nhân và trách nhiệm thực hiện của riêng tôi. Quý vị khách mời có thể cho tôi biết văn bản chia một phần tài sản chung vợ chồng như vậy có hợp pháp không, có được công chứng hoặc tòa án công nhận hay không? Tài sản, lợi nhuận phát sinh từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tư nhân sau thời điểm chia có là tài sản riêng của tôi, cũng như tôi chỉ phải chịu trách nhiệm với các các nghĩa vụ tài chính phát sinh từ hoạt động kinh doanh bằng tài sản riêng của tôi? Tài sản chung của vợ chồng (chưa chia) có được dùng để thực hiện các nghĩa vụ từ hoạt động kinh doanh của DNTN của tôi hay không? Văn bản chia tài sản cần thể hiện nội dung gì để mọi tài sản, nghĩa vụ phát sinh (sau thời điểm chia) đều thuộc phạm vi tài sản riêng và trách nhiệm của riêng tôi.

Tuấn, Hà Nội


Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM
 trả lời :

Theo quy định điều 38 Luật HNGĐ 2014 thì trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng bạn có quyền thỏa thuận phân chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung (trừ trường hợp việc phân chia bị cấm theo điều 42 Luật HNGĐ 2014).

Sau khi phân chia tài sản thì phần tài sản được chia, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng được chia từ mỗi bên sẽ được xác định là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Văn bản phân chia tài sản riêng này có thể được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng bạn. Bạn có thể liên hệ trực tiếp với các tổ chức hành nghề công chứng để được hướng dẫn cụ thể hơn về nội dung về văn bản.

Những nghĩa vụ riêng về tài sản của bạn sẽ được thanh toán từ tài sản riêng của bạn bao gồm:

1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;

2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;

3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình;

4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.

Trong trường hợp tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì sẽ lấy từ phần tài sản của bạn trong khối tài sản chung vợ chồng để trả nợ.

 


Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM. Ảnh: Huyền Vi


 

Vợ chồng tôi đứng tên đồng sở hữu một căn nhà, tuy nhiên sau đó chúng tôi bán nhà dành tiền mua một mảnh đất ở tỉnh khác nhưng do thủ tục làm mất thời gian khi đó tôi lại đang mang thai nên tôi để chồng đứng tên mảnh đất này. Vậy xin hỏi mảnh đất này có được xem là tài sản chung hay không?

Thùy Dương, Nhân viên văn phòng

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Theo quy định tại điều 33 Luật HNGĐ 2014 thì tài sản được vợ hoặc chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Việc một người đứng tên trên giấy chứng quyền sở hữu tài sản không đồng nghĩa với việc tài sản này là tài sản riêng. Hơn nữa theo thông tin mà bạn cung cấp mảnh đất này được nhận chuyển nhượng từ số tiền chung của vợ chồng nên cho dù có đứng tên một người vẫn được là tài sản chung của vợ chồng.

Nếu bạn muốn đứng tên cùng chồng trong giấy này bạn có quyền yêu cầu cơ quan có thâm quyền cấp đổi giấy để ghi tên của cả vợ và chồng theo quy định tại khoản 2 điều 12 Nghị định 126/2014/NĐCP.


 

Vợ chồng tôi ly hôn. vậy căn nhà chung không chia mà cả 2 lập thoả thuận tặng cho các con căn nhà này được không?

Quang Hùng , kỹ sư

Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa trả lời :

Trả lời:
Căn nhà thuộc quyền sở hữu chung của hai bạn và là tài sản chung chưa phân chia. Vì vậy, hai bạn có toàn quyền định đoạt đối với tài sản này. Hai bạn có thể lập hợp đồng tặng cho tài sản là căn nhà này cho các con của hai bạn. Hợp đồng tặng cho tài sản phải được lập thành văn bản và công chứng theo qui định của pháp luật.


 

Đầu năm 2013 tôi kết hôn. Đến đầu năm 2014 tôi có mua một căn nhà bằng tiền tiết kiệm của tôi từ trước khi cưới. Về mặc thủ tục căn nhà trên chỉ có mình tôi đứng tên. Vậy tôi phải có những giấy tờ gì để tôi được công nhận đây là tài sản riêng của tôi?


Thiên Hương, 35 tuổi, Quận 12, Kế toán

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Về mặt nguyên tắc, nếu căn nhà này được mua từ số tiền riêng của bạn có được trước khi kết hôn thì đây được xem là tài sản riêng của bạn theo quy định tại khoản 2 điều 43 Luật HNGĐ 2014. Tuy nhiên, nếu không có giấy tờ chứng minh về vấn đề này thì căn nhà được xác định là tài sản chung của vợ chồng (theo khoản 3 điều 33 Luật HNGĐ 2014). Để chứng minh, chồng bạn có thể lập văn bản xác nhận, cam kết nội dung này. Văn bản cam kết được công chứng hoặc chứng thực theo quy định.


 

Khi cưới chồng tôi có cho một số nữ trang bông, vòng đeo cổ, nhẫn, 2 dây chuyền … vàng này có phải là của riêng tôi hya vẫn là tài sản chung của vợp chồng


Phạm thị lệ quyên , quận 8, TP.HCM


Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa
 trả lời :

Trả lời:
Căn cứ theo Điều 43 Luật Hôn nhân gia đình 2014 thì tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân. Như vậy trong trường hợp này số nữ trang mà chồng bạn tặng riêng cho bạn là thuộc tài sản riêng của bạn.

 


Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa. Ảnh: Huyền Vi

 


 

 

Tôi có một căn nhà do được cha mẹ tặng cho riêng, tôi xin hỏi tiền cho thuê nhà từ căn nhà được tặng cho này có phải là tài sản riêng của tôi hay ko, hoặc tôi đi thế chấp vay vốn ngân hàng để làm ăn thì tiền thu được sau khi trả nợ ngân hàng có phải là tài sản riêng của tôi hay ko.

Đào Thị Sâm, tuổi 55, nghề nghiệp cán bộ hưu trí, địa chỉ 157/4 Nguyễn Kiệm Phường 03, Gò Vấp

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Theo quy định tại khoản 1 điều 33 Luật HNGĐ 2014 thì hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng (trong đó có tiền cho thuê tài sản) vẫn được xác định là tài sản chung của vợ chồng (trừ trường hợp tài sản này được chia từ tài sản chung của vợ chồng – theo quy định tại khoản 1 điều 40 của Luật HNGĐ 2014). Đồng thời thu nhập do lao động, sản xuất kinh doanh được tạo ra trong thời kỳ hôn nhân cũng được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Do đó, thu nhập của bạn có được từ việc vay tiền ngân hàng để kinh doanh cũng được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Việc bạn thế chấp tài sản chỉ là một biện pháp đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ vay tiền.

 


Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM. Ảnh: Huyền Vi

 

 


 

Trước đây, tôi để chồng tôi đứng tên nhà một mình. Vậy khi bán nhà thì chồng tôi có buộc phải hỏi ý kiến tôi hay không?

Lyy2011@yahoo.com

Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa trả lời :

Trả lời:
Trong trường hợp này, nếu căn nhà được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân mà không thuộc tài sản riêng của chồng bạn thì mặc dù chồng của bạn đứng tên một mình trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, thì tài sản này thuộc tài sản chung của vợ chồng bạn đã được qui định tại điều 33 của Luật Hôn nhân gia đình 2014. Như vậy khi chồng bạn muốn bán căn nhà này thì phải được sự đồng ý của bạn thì mới tiến hành mua bán chuyển nhượng được.

 


Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa. Ảnh: Huyền Vi

 


 

Theo quy định tại Điều 28 Luật HNGĐ 2014 thì vợ chồng có quyền lựa chọn việc áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận. Đồng thời cũng quy định việc ký kết thỏa thuận này phải được thực hiện trước khi đăng ký kết hôn và phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định. Nếu như khi đăng ký kết hôn không làm việc ký kết thỏa thuận nêu trên thì hậu quả pháp lý sẽ giải quyết như thế nào nếu sau này xảy ra tranh chấp?


Phạm Ngọc, 24, Hà Nội, nhân viên

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Theo quy định tại điều 7 của Nghị định 126/2014/NĐCP thì trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận thì chế độ tài sản của vợ chồng sẽ được áp dụng theo luật định. Nếu có tranh chấp giữa vợ và chồng về tài sản chung riêng thì các quy định của Luật HNGĐ 2014 về chế độ tài sản vợ chồng theo luật định sẽ được áp dụng để giải quyết.


 

Trước khi con gái tôi lấy chồng, tôi đã mua cho cháu một căn hộ chung cư riêng, hơi nhỏ. Nay, cháu đã lập gia đình và có con. Tôi muốn đổi căn nhà khác lớn hơn, nhưng vẫn đứng tên cháu. Vậy, tài sản này có được gọi là riêng của con gái tôi không, hay có cả phần con rể nữa? Nếu tôi muốn tài sản đó là của riêng con gái tôi có được không? Vì tôi mua, đổi căn nhà rộng hơn, cũng bắt nguồn từ tài sản ban đầu là căn nhà này? Vậy làm cách nào để con gái tôi là sở hữu duy nhất? Cám ơn các LS.


Nguyên Thien Huong, 58. Phú Nhuận. Tp. HCM

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Đối với câu hỏi này bạn có thể tham khảo câu trả lời đối với trường hợp tương tự trong chuyên mục trước đó.

 


Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM. Ảnh: Huyền Vi

 

 


 

 

Hai vợ chồng tôi đều là dân làm ăn buôn bán và cũng khá thành công. Chúng tôi hoàn toàn tiền ai nấy xài. Hiện giờ thì không sao, tuy nhiên tôi có sự lo ngại nếu tài sản không rõ ràng chung riêng như hiện nay, nếu chẳng may xảy ra nợ nần đối với một người thì có phải lấy tài sản của người kia giải quyết không? Hiện chúng tôi phải làm thế nào để phân định tài sản riêng theo luật mới. Tài sản chúng tôi đã tạo lập trước đây thì phải làm thế nào để phân chung riêng theo quy định mới?

Hương Thy, 45, TPHCM


Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM
 trả lời :

Theo quy định tại điều 33 Luật HNGĐ 2014 thì tài sản do vợ hoặc chồng tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ chồng. Tài sản chung của vợ chồng sẽ được dùng để thực hiện các nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng như:

1. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do vợ chồng cùng thỏa thuận xác lập, nghĩa vụ bồi thường thiệt hại mà theo quy định của pháp luật vợ chồng cùng phải chịu trách nhiệm;

2. Nghĩa vụ do vợ hoặc chồng thực hiện nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình;

3. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung;

4. Nghĩa vụ phát sinh từ việc sử dụng tài sản riêng để duy trì, phát triển khối tài sản chung hoặc để tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu của gia đình;

5. Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do con gây ra mà theo quy định của Bộ luật dân sự thì cha mẹ phải bồi thường;

6. Nghĩa vụ khác theo quy định của các luật có liên quan.

Chỉ các nghĩa vụ riêng về tài sản của vợ hoặc chồng mới được thanh toán từ tài sản riêng của người đó. Đó là các nghĩa vụ như:

1. Nghĩa vụ của mỗi bên vợ, chồng có trước khi kết hôn;

2. Nghĩa vụ phát sinh từ việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp nghĩa vụ phát sinh trong việc bảo quản, duy trì, tu sửa tài sản riêng của vợ, chồng theo quy định tại khoản 4 Điều 44 hoặc quy định tại khoản 4 Điều 37 của Luật này;

3. Nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do một bên xác lập, thực hiện không vì nhu cầu của gia đình;

4. Nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật của vợ, chồng.

Nếu tài sản riêng không đủ để thực hiện nghĩa vụ thì sẽ được lấy từ phần tài sản của vợ chồng trong khối tài sản chung.

 

 


 

Nếu bạn muốn xác định rõ ràng tài sản chung riêng trong thời kỳ hôn nhân bạn và chồng có thể thỏa thuận phân chia tài sản chung vợ chồng theo điều 38 Luật HNGĐ 2014. Văn bản này có thể được công chứng theo quy định. Tuy nhiên cần lưu ý việc phân chia tài sản này sẽ bị vô hiệu nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

1. Ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích của gia đình; quyền, lợi ích hợp pháp của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình;

2. Nhằm trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

a) Nghĩa vụ nuôi dưỡng, cấp dưỡng;

b) Nghĩa vụ bồi thường thiệt hại;

c) Nghĩa vụ thanh toán khi bị Tòa án tuyên bố phá sản;

d) Nghĩa vụ trả nợ cho cá nhân, tổ chức;

đ) Nghĩa vụ nộp thuế hoặc nghĩa vụ tài chính khác đối với Nhà nước;

e) Nghĩa vụ khác về tài sản theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan.

Đồng thời thỏa thuận này không làm thay đổi quyền và nghĩa vụ về tài sản được xác lập trước đó giữa vợ, chồng với người thứ ba.


Buổi giao lưu trực tuyến Quy định chế độ tài sản vợ chồng theo luật mới do báo Pháp Luật TP.HCM tổ chức đã thu hút rất nhiều câu hỏi của bạn đọc. Ảnh: Huyền Vi


 

 

Vợ chồng tôi đã ly thân nhưng vẫn sống cùng trong căn nhà chung 9ba mẹ con tôi ở tầng dưới, anh ấy ở trên lầu). Giờ chúng tôi có thể thoa thuan chia làm 4 phần (vợ, chồng, 2 đứa con)được không? Tôi lấy 3 phần, còn 1 phần trả tiền cho chồng tôi để anh ấy dọn đi nơi khác (vì ảnh có bồ nhí) ảnh hưởng đến mẹ con tôi.


Hoa , văn phòng


Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa
 trả lời :

Trả lời:
Căn cứ theo Điều 38 Luật Hôn nhân gia đình 2014 thì trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung. Như vậy trong trường hợp này, bạn có thể thỏa thuận với chồng về việc phân chia tài sản này.

 

                                   Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa. Ảnh: Huyền Vi

 


 

chồng tôi vừa hưởng một khoản tiền thừa kế riêng từ mẹ anh ấy. tôi có được chia 1/2 tiền này không?

Thu hằng , TP.HCM

Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa trả lời :

Trả lời
Căn cứ theo Điều 43 Luật Hôn nhân gia đình 2014 thì tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của Luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng.

Như vậy khoản tiền thừa kế riêng từ mẹ anh ấy thì bạn không  được chia số tiền này vì đây là tài sản riêng của chồng bạn.

 


 

 

1. Tôi ở nhà buôn bán lặt vặt và vợ chồng tôi vừa mua miếng đất cất nhà. Mọi chuyện mua đất, cất nhà do chồng tôi lo liệu. vậy khi cấp giấy chủ quyền nhà này tôi có được đứng tên không?

Phạm Thị Tuyết, Bà Rịa-Vũng Tàu , buôn bán

Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa trả lời :

Trả lời:
Căn cứ theo điều 33 Luật Hôn nhân gia đình 2014 thì quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.

Như vậy trong trường hợp này khi cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở gắn liền với đất ở thì phải ghi đầy đủ tên cả hai vợ chồng bạn. Điều 34 của Luật Hôn nhân gia đình 2014 qui định:

Trong trường hợp tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng thì giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng phải ghi tên cả hai vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác.

 


 

Tôi vừa mua nhà, tiền do cha mẹ cho. Đang trong thời gian làm thủ tục nhận nhà thì làm đám cưới. Tôi muốn giữ căn nhà này là tài sản riêng của mình. Xin hỏi, theo quy định mới tôi có được quyền không? tôi phải làm gì?

Hải Ly, haily@yahoo.com


Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM
 trả lời :

Theo nội dung mà bạn trình bày, số tiền mua nhà này do cha mẹ bạn cho, do đó theo quy định tại khoản 1 điều 43 Luật HNGĐ 2014 thì số tiền này được xem là tài sản riêng của bạn.  Đồng thời, theo quy định tại khoản 2 điều 43 của Luât HNGĐ 2014 thì tài sản được hình thành từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng được xác định là tài sản riêng. Do đó, căn nhà được mua từ số tiền này được xác định là tài sản riêng của bạn. Tuy nhiên, bạn cần phải có các căn cứ để chứng minh việc mình được bố mẹ tặng cho số tiền nêu trên và dùng để mua nhà. Nếu bạn không có đầy đủ căn cứ chứng minh thì tài sản này sẽ được xem là tài sản chung vợ chồng (khoản 3 điều 33 Luật HNGĐ 2014).

Bên cạnh đó, bạn cũng có thể áp dụng chế độ tài sản vợ chồng theo thỏa thuận để xác định tài sản riêng đối với căn nhà này. Việc áp dụng chế độ được thực hiện thông qua thỏa thuận giữa bạn với vợ sắp cưới trước khi kết hôn và phải được công chứng, chứng thực theo quy định. Bạn có thể liên hệ các tổ chức hành nghề công chứng để được hướng dẫn cụ thể.

 

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM đang trao đổi với khách mời khác tại buổi giao lưu trực tuyến. Ảnh: Huyền Vi

 


 

 

Trong thời gian chung sống (tôi đã có vợ và 1 con) tôi có một khoản tiền riêng, Hiện hai vợ chồng tôi gần như đã ly thân vì xích mích suốt. Như vậy, căn cứ theo như luật hon nhân gia đình mới ban hành tôi có thể tự mua nhà và đứng tên riêng một mình được không? Cám ơn cán bộ Sở và Luật sư.


Hùng Văn, vnhung@yahoo.com

Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa trả lời :

Trả lời:
Trường hợp của bạn do mới ly thân như vậy về mặt pháp luật hai bạn vẫn đang là vợ chồng hợp pháp. Nếu như bạn muốn mua nhà mà đứng tên riêng của bạn thì phải được sự đồng ý bằng văn bản của vợ bạn xác nhận rằng đây là tài sản riêng của bạn hoặc bạn phải có giấy tờ chứng minh khoản tiền mà bạn có riêng này là do được nhận tặng cho riêng hoặc nhận thừa kế thì khi đó bạn mới có thể đứng tên riêng trên giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở.

 


Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa. Ảnh: Huyền Vi

 

 


 

Tôi có căn nhà do tôi mua nhưng đứng tên cả hai vợ chồng. Giờ tôi muốn cho hai đứa con (một chung, một riêng của tôi) nhưng vợ tôi không đồng ý. Tôi tự quyết định việc này được không (vì tôi bỏ tiền mua nhà)?

Trần Văn Cường , Hóc Môn, TP.HCm, xây dựng

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Theo điều 33 Luật HNGĐ 2014 thì tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân được xác định là tài sản chung của vợ và chồng không phân biệt công sức đóng góp nhiều hay ít của vợ, chồng (trừ trường hợp vợ chồng bạn trước khi kết hôn đã lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận). Do đó, mặc dù căn nhà do bạn bỏ tiền mua, nhưng đã đứng tên của cả hai vợ chồng thì đây chính là tài sản chung và khi tặng cho cần phải có sự đồng ý thỏa thuận của vợ hoặc chồng (điều 35 Luật HNGĐ 2014).

 


 

 

Thưa Luật sư! xin Luật sư cho biết theo Nghị định 126/2014 thì trong trường hợp vợ chồng đang chung sống với nhau hạnh phúc nhưng muốn phân chia tài sản thì có thể lập một văn bản tạm gọi là hợp đồng phân chia tài sản có được hay không? Và nếu có thì cách lặp văn bản có giống như hợp đồng thông dụng hay không?

Nguyễn Thị Thùy Ngân, 20 tuổi, TP. Cao Lãnh, Đồng Tháp, sinh viên

Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa trả lời :

Trả lời:
Căn cứ theo điều 38 Luật Hôn nhân Gia đình 2014, qui định trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, như vậy trường hợp của vợ chồng bạn có thể phân chia tài sản chung theo sự thỏa thuận của hai bên.

Việc thỏa thuận về việc chia tài sản chung phải lập thành văn bản. Văn bản này được công chứng theo yêu cầu của vợ chồng hoặc theo quy định của pháp luật.

 

Luật sư Trần Giáng Hương, Văn phòng luật sư Tam Đa đang trả lời câu hỏi của bạn đọc. Ảnh: Huyền Vi

 

 


 

Vo chong song trong thoi ki hon nhan vo lam nhieu tien lo tat ca trong gia dinh con chong kg lam gi ca taii san vo lam chi tieu trong gia dinh roi tiet kiem de đanh lo cho con an hoc trong khi do chong kng lam duoc gi het thi khi li hon tai san do co goi la tai san chung hay kg

Nguyen thi mai huong, 96ngo thi thu minhp2tb


Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM
 trả lời :

Theo quy định của Luật HNGĐ 2014 thì việc xác định tài sản chung/riêng của vợ chồng sẽ tùy thuộc vào thỏa thuận của vợ/chồng về việc lựa chọn chế độ tài sản theo luật định hay theo thỏa thuận.

Nếu lựa chọn chế độ tài sản theo luật định thì những tài sản được tạo dựng trong thời kỳ hôn nhân sẽ được xác định là tài sản chung của vợ/chồng (điều 33 Luật HNGĐ 2014), mà không phân biệt công sức đóng góp của vợ chồng để tạo dựng tài sản. Do đó nếu ly hôn thì những tài sản này sẽ được chia theo chế độ tài sản chung.

 

Nếu lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận mà trong đó  vợ và chồng thỏa thuận không có tài sản chung, mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó thì khi li hôn những tài sản này sẽ được chia theo chế độ tài sản riêng.

Còn nếu trong chế độ tài sản theo thỏa thuận mà vợ chồng thỏa thuận chỉ có tài sản chung, không có tài sản riêng thì toàn bộ tài sản do vợ hoặc chồng tạo dựng trước hay trong thời kỳ hôn nhân đều là tài sản chung vợ chồng. .  Do đó nếu ly hôn thì những tài sản này sẽ được chia theo chế độ tài sản chung.

 


 

Khi bán xe máy SH có phòng công chứng bắt buộc cả hai vợ chồng cùng ký tên bán vì lý do đây là tài sản có giá trị lớn, nhưng cũng có phòng chỉ yêu cầu người đứng tên xe SH ký là đủ. Như vậy trường hợp nào phải cả hai vợ chồng cùng ký, trường hợp nào chỉ cần người đứng tên xe ký là đủ?

Vũ Vân Anh, 40 tuổi, kinh doanh mua bán xe hai bánh

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Trước đây, theo quy định tại Khoản 3 Điều 28 Luật HNGĐ 2000 thì việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thoả thuận. Theo hướng dẫn tại Khoản 3 Điều 4 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày ngày 03 tháng 10 năm 2001 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tài sản chung có giá trị lớn của vợ chồng được xác định căn cứ vào phần giá trị của tài sản đó trong khối tài sản chung của vợ chồng. Trong trường hợp vợ hoặc chồng xác lập, thực hiện hoặc chấm dứt các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn mà không có sự đồng ý của một bên, thì bên đó có quyền yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch đó vô hiệu theo quy định tại Điều 139 của Bộ luật Dân sự và hậu quả pháp lý được giải quyết theo quy định tại Điều 146 của Bộ luật Dân sự.

Tuy nhiên hiện nay, Luật HNGĐ 2014 khi quy định về định đoạt tài sản chung không lấy tiêu chí tài sản chung có giá trị lớn làm cơ sở để phân biệt việc có cần sự thỏa thuận của vợ, chồng. Cụ thể, về mặt nguyên tắc, theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Luật HNGĐ 2014, đối với tài sản thuộc sở hữu chung thì vợ chồng cùng phải thỏa thuận để định đoạt tài sản đó (như việc bán, tặng cho, thế chấp…). Nếu tài sản chung là động sản mà theo quy định pháp luật phải đăng ký quyền sở hữu thì việc định đoạt phải được thỏa thuận bằng văn bản (cả hai vợ chồng cùng phải ký).

Vợ hoặc chồng được tự mình định đoạt tài sản khi đó là tài sản riêng (Khoản 1 Điều 44 Luật HNGĐ 2014) hoặc động sản không phải đăng ký quyền sở hữu thì người vợ hoặc chồng đang chiếm hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định bảo vệ người thứ ba ngay tình (nếu người thứ ba được xác định là thực hiện giao dịch ngay tình).

 

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM nhận được rất nhiều câu hỏi của bạn đọc. Ảnh: Huyền Vi

 


 

Nghị định 126 của Chính phủ ngày 31-12-2014 (có hiệu lực ngày 15-2-2015) quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình. Nếu giao dịch nhà, đất sau ngày này có phải được hiểu là: – nếu chỉ có vợ hoặc chồng đứng tên  nhận chuyển nhượng thì nhà, đất thì đó là tài sản riêng của người đó. – nếu trên giấy chứng nhận chỉ ghi một tên vợ hoặc chồng thì khi chuyển nhượng cho người khác không cần có sự đồng ý của người kia có đúng không?


Nguyễn Duy Linh, Cần Thơ


Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM
 trả lời :

Theo quy định của Luật HNGĐ 2014, dấu hiệu một bên vợ/chồng đứng ra nhận chuyển nhượng tài sản (nhà, đất) không phải là căn cứ để xác định tài sản chung riêng của vợ, chồng. Mà việc xác định tài sản chung- riêng của vợ chồng sẽ tùy thuộc vào việc vợ chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận hay chế độ tài sản theo luật định.

Chẳng hạn, nếu vợ- chồng lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận mà trong đó thỏa thuận giữa vợ và chồng không có tài sản chung, mà tất cả tài sản do vợ, chồng có được trước khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc sở hữu riêng của người có được tài sản đó thì tài sản do một bên đứng tên nhận chuyển nhượng được xác định là tài sản riêng của người nhận chuyển nhượng (điểm c Khoản 1 Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP).

Còn trong trường hợp vợ, chồng lựa chọn chế độ tài sản theo luật định thì theo quy định tại Điều 33 Luật HNGĐ 2014 thì trong thời kỳ hôn nhân, tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác được xác định là tài sản chung và được định đoạt theo chế độ tài sản chung. Chỉ trong trường hợp có căn cứ chứng minh tài sản đó được hình thành từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng (như mua nhà bằng nguồn tiền được gia đình bên vợ/chồng tặng cho riêng hay do được thừa kế) thì tài sản đó mới được xác định là tài sản riêng.

Do đó, việc trên giấy chứng nhận chỉ ghi một tên vợ hoặc chồng thì không phải là cơ sở để xác định đó là tài sản riêng và cũng không có ý nghĩa khẳng định việc chuyển nhượng cho người khác không cần có sự đồng ý của người hôn phối. Mà cần phải có các căn cứ theo luật định để xác định đó có phải là tài sản riêng hay không. Cụ thể, theo quy định tại Khoản 2 Điều 26 Luật HNGĐ về đại diện giữa vợ và chồng trong trường hợp giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với tài sản chung nhưng chỉ ghi tên vợ hoặc chồng:

1. Việc đại diện giữa vợ và chồng trong việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản chung có giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản chỉ ghi tên vợ hoặc chồng được thực hiện theo quy định tại Điều 24 và Điều 25 của Luật này.

2. Trong trường hợp vợ hoặc chồng có tên trên giấy chứng nhận quyền sở hữu, giấy chứng nhận quyền sử dụng tài sản tự mình xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch với người thứ ba trái với quy định về đại diện giữa vợ và chồng của Luật này thì giao dịch đó vô hiệu, trừ trường hợp theo quy định của pháp luật mà người thứ ba ngay tình được bảo vệ quyền lợi.

Đồng thời, Khoản 3 Điều 33 Luật HNGĐ 2014 quy định: “Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.

 

Ông Hoàng Chương, Phó Tổng biên tập báo Pháp Luật TP.HCM (giữa) tặng hoa cho khách mời. Ảnh: Huyền Vi

 


 

Hai vợ chồng cùng đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Nay người chồng muốn tặng phần đất của mình lại cho con gái (đã thành niên), để con gái và vợ cùng đứng tên sử dụng quyền sử dụng đất này. Nếu vậy thì thủ tục ra sau? (Người chồng có cần phải lập thủ tục phân chia tài sản của vợ chồng trước, sau đó mới tặng cho con gái hay là tặng cho gái luôn mà không cần lập văn bản thỏa thuận tài sản giữa vợ và chồng)?

Trịnh Thị Hồng Thơm, Tiền Giang

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều 33 Luật HNGĐ 2014, thì quyền sử dụng đất của vợ chồng bạn cùng đứng tên là tài sản chung và tài sản chung vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất.

Theo quy định tại Khoản 1 Điều 35 Luật HNGĐ thì việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung phải do vợ chồng thỏa thuận. Do đó, về mặt nguyên tắc việc tặng cho phần quyền sử dụng đất của chồng trong khối tài sản chung vợ chồng phải được sự thỏa thuận của người vợ khi tặng cho. Tùy theo mục đích của việc tặng cho để người được tặng cho cùng sử dụng chung hay tách thửa riêng về quyền sử dụng mỗi người mà có cần thỏa thuận phân chia tài sản chung vợ chồng trước khi thực hiện tặng cho.

Về thủ tục, giấy tờ cần thiết sẽ theo quy định tại Điều 40 và Điều 41 Luật Công chứng năm 2014. Cụ thể, hồ sơ yêu cầu công chứng được lập thành một bộ, gồm các giấy tờ sau đây:

a) Phiếu yêu cầu công chứng, trong đó có thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng, nội dung cần công chứng, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, thời điểm tiếp nhận hồ sơ;


b) Dự thảo hợp đồng, giao dịch;


c) Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng;


d) Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó;


đ) Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có.

Để biết thêm chi tiết, bạn có thể liên hệ với các tổ chức hành nghề công chứng để được hướng dẫn cụ thể.

 

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM đang trả lời câu hỏi của bạn đọc. Ảnh: Huyền Vi


2. Tháng 3-2015, chúng tôi làm đám cưới. Hiện tại, hai chúng tôi đều đi làm, đều có tài sản riêng nên chúng tôi muốn đăng ký tài sản đó là tài sản riêng của mỗi người không nhập chung lại và của ai người nấy hưởng. Đồng thời, chúng tôi cũng muốn thỏa thuận, toàn bộ tiền chúng tôi (bất kể vợ hay chồng) làm ra sau đám cưới đều thuộc tài sản chung của vợ chồng thì pháp luật có công nhận không? Thủ tục ra sao và ai chứng cho việc này?

Tra My

Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM trả lời :

Theo quy định tại Điều 43 Luật HNGĐ 2014 thì tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn là tài sản riêng của vợ hoặc chồng và tài sản đó sẽ được phép định đoạt theo chế độ tài sản riêng.

Bên cạnh đó, theo quy định tại Điều 33 Luật HNGĐ 2014 thì trong thời kỳ hôn nhân, tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác được xác định là tài sản chung và được định đoạt theo chế độ tài sản chung.

Do đó, yêu cầu về tài sản của bạn hoàn toàn phù hợp với chế độ tài sản vợ chồng theo luật định. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận được quy định tại Điều 48 Luật HNGĐ 2014 và Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP. Theo đó, trường hợp bạn lựa chọn áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận thì vợ chồng có thể thỏa thuận về xác định tài sản theo hướng thỏa thuận cụ thể về tài sản giữa vợ và chồng bao gồm tài sản chung và tài sản riêng của vợ, chồng, xác định nguyên tắc những loại tài sản nào là tài sản riêng, những loại tài sản nào là tài sản chung, quyền và nghĩa vụ của vơ, chồng đối với mỗi loại tài sản đó, điều kiện và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản.

Tuy nhiên, cần lưu ý là cho dù thực hiện theo chế độ tài sản theo thỏa thuận, nhưng nếu trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên (Khoản 2 Điều 30 Luật HNGĐ 2014).

Việc ký kết thỏa thuận này phải được thực hiện trước khi đăng ký kết hôn và phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định (Điều 47 Luật HNGĐ 2014).

Về thủ tục, giấy tờ cần thiết sẽ theo quy định tại Điều 40 và Điều 41 Luật Công chứng năm 2014. Cụ thể, hồ sơ yêu cầu công chứng được lập thành một bộ, gồm các giấy tờ sau đây:

a) Phiếu yêu cầu công chứng, trong đó có thông tin về họ tên, địa chỉ người yêu cầu công chứng, nội dung cần công chứng, danh mục giấy tờ gửi kèm theo; tên tổ chức hành nghề công chứng, họ tên người tiếp nhận hồ sơ yêu cầu công chứng, thời điểm tiếp nhận hồ sơ;

b) Dự thảo hợp đồng, giao dịch;


c) Bản sao giấy tờ tùy thân của người yêu cầu công chứng;


d) Bản sao giấy chứng nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc bản sao giấy tờ thay thế được pháp luật quy định đối với tài sản mà pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng trong trường hợp hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản đó;


đ) Bản sao giấy tờ khác có liên quan đến hợp đồng, giao dịch mà pháp luật quy định phải có.

Để biết thêm chi tiết, bạn có thể liên hệ với các tổ chức hành nghề công chứng để được hướng dẫn cụ thể.

 


 

Tôi đi làm được bảy năm dành dụm mua được một số tài sản như một miếng đất (chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất), một căn hộ chung cư, một chiếc xe máy và một ít tiền trong tài khoản ngân hàng để làm ăn…Nếu qua năm tôi cưới vợ thì tôi muốn toàn bộ tài sản trên là tài sản của riêng tôi trước thời kỳ hôn nhân thì phải làm sao? Tôi muốn làm trước để đỡ rắc rối về sau và vợ chồng đỡ lấn cấn tiền bạc?


Quan Pham


Ông Từ Dương Tuấn, Trưởng phòng Bổ trợ tư pháp Sở Tư pháp TP.HCM
 trả lời :

Theo quy định tại Điều 28 Luật HNGĐ 2014 thì vợ chồng có quyền lựa chọn việc áp dụng chế độ tài sản theo luật định hoặc chế độ tài sản theo thỏa thuận để từ đó, làm cơ sở thực hiện việc xác định,  quản lý, sử dụng và định đoạt các tài sản chung, riêng của vợ, chồng.

Về mặt nguyên tắc, chế độ tài sản của vợ chồng theo luật định được áp dụng trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận về chế độ tài sản nhưng thỏa thuận này bị Tòa án tuyên bố vô hiệu theo quy định tại Điều 50 của Luật Hôn nhân và gia đình (Điều 7 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP).

Chế độ tài sản theo thỏa thuận là chế độ tài sản được xác lập giữa vợ và chồng liên quan đến việc xác định nguyên tắc những loại tài sản nào là tài sản riêng, những loại tài sản nào là tài sản chung, quyền và nghĩa vụ của vơ, chồng đối với mỗi loại tài sản đó, điều kiện và nguyên tắc phân chia tài sản khi chấm dứt chế độ tài sản.

Như vậy, với yêu cầu bạn đặt ra, thì bạn có thể cùng với vợ chưa cưới tiến hành lập thỏa thuận về việc lựa chọn chế độ tài sản theo thỏa thuận theo những nội dung Điều 48 Luật HNGĐ 2014 và Điều 15 Nghị định số 126/2014/NĐ-CP.

Việc ký kết thỏa thuận này phải được thực hiện trước khi đăng ký kết hôn và phải được công chứng hoặc chứng thực theo quy định (Điều 47 Luật HNGĐ 2014). Cần lưu ý là: cho dù thực hiện theo chế độ tài sản theo thỏa thuận, nhưng nếu trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên (Khoản 2 Điều 30 Luật HNGĐ 2014).

Bên cạnh đó, đối với những tài sản bạn có trước thời kỳ hôn nhân thì nếu bạn lựa chọn chế độ tài sản theo luật định thì vẫn được Luật HNGĐ 2014 xác định là tài sản riêng của bạn và được quyền định đoạt theo chế độ tài sản riêng.

 

Toàn cảnh buổi giao lưu trực tuyến Quy định chế độ tài sản vợ chồng theo luật mới. Ảnh: Huyền Vi

 

9ec5addc67447038d196a2fc30522c2d_L

BỊ LỪA VÌ MUA VÉ DU LỊCH 
NƯỚC NGOÀI QUA MẠNG

TTO – Tình trạng lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua mạng xã hội Facebook và qua một số diễn đàn tuy đã được các cơ quan chức năng xử lý và cảnh báo nhưng nhiều người vẫn bị dính bẫy.

Theo tìm hiểu của Tuổi Trẻ, các trang mạng, trang Facebook… được một số đối tượng đăng tin nhận đặt vé tham quan các khu vui chơi, giải trí ở Singapore với 
giá rẻ.

 

TTO – Tình trạng lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua mạng xã hội Facebook và qua một số diễn đàn tuy đã được các cơ quan chức năng xử lý và cảnh báo nhưng nhiều người vẫn bị dính bẫy.

 

Bị lừa vì mua vé du lịch 
nước ngoài qua mạng

Theo tìm hiểu của Tuổi Trẻ, các trang mạng, trang Facebook… được một số đối tượng đăng tin nhận đặt vé tham quan các khu vui chơi, giải trí ở Singapore với 
giá rẻ.

Khi khách hàng có nhu cầu đặt mua vé sẽ liên hệ qua điện thoại hoặc email: ticketssingapore@…, tài khoản Facebook để gửi các thông tin (số lượng người, thời gian tham quan, số điện thoại…) cho đối tượng.

Sau khi nhận được yêu cầu của khách hàng, các đối tượng đưa ra giá vé và cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng để người mua gửi tiền thanh toán và thông báo thời gian chuyển vé cho khách hàng. Tuy nhiên, khi nhận được tiền thì đối tượng cắt đứt liên lạc và không chuyển vé như đã thỏa thuận.

Ham giá rẻ

Thông qua trang Facebook “vé Universal Studio Singapore – thông tin tư vấn du lịch Singapore”, chị L.T.B.Y. (ngụ P.Thạnh Xuân, Q.12, TP.HCM) liên lạc với hai số điện thoại 0902086… và 01223717… để đặt vé du lịch Singapore giá rẻ. Sau đó chị Y. đã chuyển hơn 11 triệu đồng vào hai tài khoản do N.N.T. đứng tên và N.T.N.D..

Sau khi chuyển tiền xong đối tượng không cung cấp vé, đồng thời cắt đứt mọi liên lạc.

Tương tự, anh N.K.P. (ngụ Q.12) giao dịch mua vé qua địa chỉ email: ticketssingapore@… và liên lạc giao dịch cũng qua hai số điện thoại trên. Anh P. đã chuyển 5,3 triệu đồng vào tài khoản cũng của N.N.T. đứng tên. Nhận tiền xong, các đối tượng biến mất.

Chị N.H.M. (ngụ P.2, Q.Bình Thạnh), nhân viên Công ty Phát triển phần mềm quốc tế, cũng bị các đối tượng lừa đảo với thủ đoạn tương tự.

Theo tìm hiểu, N.N.T. thường trú tại Q.Bình Tân (TP.HCM), tạm trú tại Đức Hòa (Long An). T. chính là người đứng tên mở tài khoản tại hai ngân hàng để nhận tiền của khách hàng đặt mua vé tham quan các khu vui chơi giải trí tại Singapore.

Các giao dịch của T. tại các ngân hàng phần lớn là “thanh toán tiền vé tham quan các khu du lịch tại Singapore” với tổng số tiền hơn 300 triệu đồng. Tổng giao dịch hai tài khoản của T. là gần 2,3 tỉ đồng.

N.N.T. cũng là người đứng tên đăng ký chủ thuê bao 01223717… Đây là số điện thoại đăng trên các trang rao vặt và các diễn đàn để liên lạc với khách hàng nhằm mục đích lừa đảo.

Tham gia cùng các phi vụ làm ăn của T. còn có N.T.N.D. (nữ). D. ngụ ở Hà Nội, có mở tài khoản tại ngân hàng. Tài khoản của D. nhận được gần 10 triệu đồng của chị Y. bị lừa chuyển vào.

Vi phạm ở đâu, xử lý ở đó

Theo các luật sư, hành vi của các đối tượng có dấu hiệu vi phạm vào điều 226b Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 về tội “sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.

Theo luật sư Trần Giáng Hương (trưởng văn phòng luật sư Tam Đa), căn cứ khoản 4, điều 10 thông tư 
10-2012 hướng dẫn áp dụng Bộ luật hình sự về một số tội phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin và viễn thông, hành vi “quảng cáo bán hàng trên mạng Internet, mạng viễn thông nhưng không giao hàng hoặc giao không đúng số lượng, chủng loại, chất lượng thấp hơn hàng quảng cáo và các hành vi tương tự quảng cáo” bị xử lý theo điều 226b, có mức án cao nhất là chung thân.

Nhiều nạn nhân thắc mắc sau khi bị lừa không biết gửi đơn tố cáo sự việc ở đâu để được giúp đỡ. Một luật sư cho biết căn cứ vào đặc thù của tội phạm sử dụng công nghệ cao, khi phát hiện đối tượng chính cư trú tại địa phương nào thì thường phối hợp với địa phương đó để tiến hành xử lý.

Trong vụ việc này, đối tượng N.N.T. cư trú tại Long An thì theo luật định cơ quan điều tra ở Long An xử lý.

Tuy nhiên qua tìm hiểu, phía công an và Viện KSND tỉnh Long An cho rằng mặc dù đối tượng đang sinh sống tại địa bàn tỉnh Long An nhưng tài liệu không thể hiện hành vi phạm tội của đối tượng xảy ra trên địa bàn tỉnh Long An, hơn nữa các bị hại chuyển tiền và đối tượng rút tiền tại địa bàn TP.HCM.

Vì thế Công an tỉnh Long An viện dẫn điều 110 Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền điều tra để đưa ra quan điểm vụ việc không thuộc thẩm quyền thụ lý của Công an tỉnh Long An.

Hiện vụ việc đang được cơ quan nghiệp vụ của Bộ Công an đề nghị chuyển hồ sơ sang Công an TP.HCM tiến hành xử lý theo thẩm quyền.

Không giao hết tiền trước

Các đối tượng thường đánh vào tâm lý ham rẻ của khách hàng để thực hiện hành vi lừa đảo. Vì vậy, khi nghe những lời quảng cáo giá rẻ về một dịch vụ nào đó thì khách hàng nên so sánh mức giá thị trường có hợp lý hay không. Nếu thấy mức giá chênh lệch quá lớn thì nên cân nhắc trước khi giao dịch.

Đặc biệt, khách hàng không nên chuyển hết tiền trước khi nhận hàng. Nếu các trang mạng mua bán trực tuyến yêu cầu khách hàng chuyển hết tiền mới chuyển hàng thì nên từ chối vì có thể đó là trang mạng lừa đảo.

Luật sư Trần Giáng Hương

Trích từ nguồn : http://tuoitre.vn