HƯỚNG DẪN VIỆC THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC VÀ TIN BÁO TỘI PHẠM

Để thi hành các quy định của Luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, để các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm được tình hình, có kế hoạch chủ động phòng ngừa và kịp thời đấu tranh, không bỏ lọt tội phạm. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Lâm nghiệp, Tổng cục Hải quan thống nhất hướng dẫn như sau:

 

Văn phòng luật sư Tam Đa: Tư vấn luật Hình Sự  Tư vấn luật Đất đai  Tư vấn luật Thương mại  Tư vấn luật Đầu tư  Tư  vấn luật Lao động  Tư vấn thủ tục Ly Hôn  Dịch vụ Thành lập doanh nghiệp  Tranh tụng tại tòa về Hình sự – Dân sự – Kinh tế. Hãy gọi  cho chúng tôi để được cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất với chi phí hợp lý nhất! Đường dây nóng: 0918.68.69.67

 

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO – BỘ NỘI VỤ – BỘ QUỐC PHÒNG – BỘ LÂM NGHIỆP – TỔNG CỤC HẢI QUAN
—–

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
——-

Số: 03/TTLN

Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 1992

 

THÔNG TƯ LIÊN NGÀNH

HƯỚNG DẪN VIỆC THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC VÀ TIN BÁO TỘI PHẠM

Để thi hành các quy định của Luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm, để các cơ quan bảo vệ pháp luật nắm được tình hình, có kế hoạch chủ động phòng ngừa và kịp thời đấu tranh, không bỏ lọt tội phạm. Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Lâm nghiệp, Tổng cục Hải quan thống nhất hướng dẫn như sau:

I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG:

1. Tố giác và tin báo về tội phạm là những thông tin về tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự do công dân, cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (gọi tắt là người, cơ quan, tổ chức) cung cấp cho cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết, do các phương tiện thông tin đại chúng nêu lên hoặc do người phạm tội tự thú.

– Tố giác và tin báo về tội phạm có thể được thể hiện bằng các hình thức thông tin.

2. Cơ quan có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết tố giác có tin báo về tội phạm nêu trong thông tư này bao gồm: cơ quan điều tra của lực lượng An ninh nhân dân, Cảnh sát nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân (bao gồm cả Viện kiểm sát quân sự). Quân đội nhân dân; các cơ quan khác trong lực lượng ANND, CSND, QĐND, đơn vị Bộ đội Biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

+ Việc tiếp nhận và giải quyết các tố giác và tin báo về tội phạm phải tuân theo những quy định của Bộ Luật tố tụng hình sự và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự. Nếu xét thấy không thuộc thẩm quyền điều tra của mình thì phải báo hoặc chuyển ngay cho cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết vụ việc đó: không được vì bất cứ lý do gì mà từ chối việc tiếp nhận giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm. Mọi trường hợp không làm hoặc làm trái các quy định về tiếp nhận giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm phải được xem xét, quy trách nhiệm rõ ràng.

3. Các cơ quan tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm có trách nhiệm trả lời cho cơ quan, tổ chức hoặc người đã cung cấp tin. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, người cung cấp tin yêu cầu giữ bí mật thì phải giữ bí mật cho họ.

4. Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm của cơ quan nói ở điểm 2 mục I của thông tư này.

II. NHIỆM VỤ TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC VÀ TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM:

1. Cơ quan điều tra:

+ Đối với tố giác và tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan mình, được quy định trong các điều 9, 12, 15, 18 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự thì cơ quan điều tra của lực lượng Cảnh sát nhân dân, An ninh nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân hoặc Quân đội nhân dân phải kiểm tra, xác minh nguồn tin và quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự theo quy định tại điều 86 Bộ luật tố tụng hình sự.

+ Cơ quan điều tra của Viện kiểm sát nhân dân tiếp nhận tố giác và tin báo về tội phạm xâm phạm hoạt động tư pháp và các tố giác và tin báo khác về tội phạm do Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân giao cho.

+ Những tố giác và tin báo về tội phạm không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan mình thì chuyển ngay đến cơ quan điều tra có thẩm quyền.

+ Các cơ quan điều tra thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp về tình hình tiếp nhận và các quyết định giải quyết hoặc chuyển việc đó cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết.

2. Viện kiểm sát nhân dân:

– Khi nhận được tố giác và tin báo về tội phạm, Viện kiểm sát nhân dân có trách nhiệm:

+ Chuyển đến Cơ quan điều tra có thẩm quyền để giải quyết.

+ Yêu cầu khởi tố hoặc ra quyết định khởi tố vụ án hình sự, chuyển cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra.

– Thông báo kết quả giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm đã được xử lý hoặc chưa được giải quyết cho các cơ quan, tổ chức, người đã cung cấp tin cho Viện kiểm sát nhân dân.

– Viện kiểm sát nhân dân các cấp có trách nhiệm thống kê tổng hợp tình hình kết quả giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm.

3. Các cơ quan khác trong lực lượng ANND, CSND, QĐND, đơn vị Bộ đội Biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra:

+ Các cơ quan khác trong lực lượng ANND, CSND, QĐND, đơn vị Bộ đội Biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm có trách nhiệm tiếp nhận và giải quyết các tố giác và tin báo về tội phạm đối với những tội thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan mình, quy định trong các điều 10, 13, 16, 27, 28, 29 Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự.

+ Nếu là vụ việc phạm tội thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra thì chuyển đến Cơ quan điều tra giải quyết. Khi Cơ quan điều tra có yêu cầu thẩm tra, xác minh thì theo chức năng được giao mà thực hiện các yêu cầu đó.

4. Việc tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm được nêu trên các phương tiện thông tin đại chúng:

+ Tố giác và tin báo về tội phạm thuộc thẩm quyền điều tra của cơ quan, đơn vị nào thì cơ quan, đơn vị đó giải quyết theo chức năng, nhiệm vụ được giao.

+ Tố giác và tin báo về tội phạm nếu chưa rõ thẩm quyền điều tra của cơ quan, đơn vị nào thì Viện kiểm sát ghi nhận, sau đó chuyển cho cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết.

III. THỦ TỤC TIẾP NHẬN, GIẢI QUYẾT TỐ GIÁC VÀ TIN BÁO VỀ TỘI PHẠM:

1. Tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm:

+ Các Cơ quan điều tra có trách nhiệm tổ chức thường trực để tiếp nhận tố giác và tin báo về tội phạm do công dân, cơ quan, tổ chức cung cấp.

+ Trường hợp công dân, cơ quan, tổ chức đến tố giác và báo tin về tội phạm cho Cơ quan điều tra (hoặc cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra), phải ghi nhận nguồn tin, trực tiếp giải quyết những tin thuộc thẩm quyền của mình; nếu tin đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, đơn vị mình thì sau khi tiếp nhận tin cần hướng dẫn người báo tin đến đúng cơ quan có thẩm quyền để báo tin, nếu xét việc này không gây khó khăn cho người báo tin hoặc không làm ảnh hưởng đến việc điều tra, xác minh, ngăn chặn ngay tội phạm; trường hợp cần phải ngăn chặn ngay tội phạm thì phải có biện pháp giải quyết kịp thời.

+ Trường hợp nhận được tố giác và tin báo về tội phạm qua đơn thư thì phải tiếp nhận và đăng ký vào sổ để giải quyết.

+ Khi công dân trực tiếp đến tố giác và báo tin về tội phạm thì phải tiếp nhận và ghi vào sổ (nếu là tin quan trọng thì có thể ghi âm, ghi hình, chụp ảnh… bí mật) đồng thời lập biên bản có chữ ký của người đến báo tin.

+ Trường hợp người phạm tội đến tự thú, thì ghi lời tự thú vào sổ, lập biên bản ghi lời khai sơ bộ (có chữ ký của người đến tự thú), sau đó báo cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền giải quyết.

+ Mọi trường hợp phân loại và giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm đều phải do thủ trưởng, phó thủ trưởng Cơ quan điều tra; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra quyết định.

2. Thông báo kết quả tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm:

+ Các cơ quan, đơn vị tiếp nhận và giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm có trách nhiệm thông báo cho công dân, cơ quan, tổ chức đã báo tin biết: kết quả giải quyết hay đã chuyển tin đến cơ quan, đơn vị nào giải quyết.

3. Những điều kiện đảm bảo việc tiếp nhận giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm:

+ Các Cơ quan điều tra (của lực lượng Cảnh sát nhân dân, An ninh nhân dân, Quân đội nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân) phải tổ chức thường trực để tiếp nhận đầy đủ và giải quyết mọi tố giác và tin báo về tội phạm. Trụ sở tiếp nhận phải đặt ở địa điểm thuận tiện, có biển ghi tên cơ quan và thông báo rộng rãi để mọi người biết. Các cơ quan khác trong lực lượng ANND, CSND, QĐND, đơn vị Bộ đội Biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cần phân công người tiếp nhận và giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm.

+ Các ngành nêu trong thông tư này áp dụng thống nhất các loại mẫu biểu, sổ sách: “Tiếp nhận tố giác và tin báo về tội phạm”; Mẫu “Thống kê tố giác và tin báo về tội phạm”; “Thông báo kết quả giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm”; “Chế độ thông tin, thông báo giữa các ngành”.

+ Viện kiểm sát nhân dân Tối cao chủ trì cùng với các ngành hữu quan tổ chức nghiên cứu thống nhất các biểu mẫu nói trên để các ngành ban hành thực hiện.

IV. TỔ CHỨC THỰC HIỆN:

+ Thủ trưởng Cơ quan điều tra các cấp có nhiệm vụ thông báo tình hình tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp hàng ngày (đ/v cấp Huyện, Thị), hàng tháng (đ/v cấp Tỉnh, Thành phố trực thuộc trung ương) và hàng quý (đ/v cấp TW qua họp liên ngành). Viện kiểm sát nhân dân các cấp phải có sổ ghi chép cụ thể, chính xác và có trách nhiệm thông báo tình hình chung trong các cuộc họp giao ban.

+ Thủ trưởng các cơ quan khác trong lực lượng ANND, CSND, QĐND, đơn vị Bộ đội Biên phòng, cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có trách nhiệm tổng hợp số vụ đã khởi tố và không khởi tố thông qua việc tiếp nhận, giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm gởi đến Cơ quan điều tra của ngành mình theo định kỳ (tháng quý năm). Cơ quan điều tra từng ngành có trách nhiệm tổng hợp gởi đến Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp.

+ Thủ trưởng cơ quan Hải quan, cơ quan Kiểm lâm có trách nhiệm thông báo cho Viện kiểm sát nhân dân biết việc tiếp nhận giải quyết tố giác và tin báo về tội phạm ở cơ quan, đơn vị mình.

+ Viện kiểm sát nhân dân chịu trách nhiệm tổng hợp số vụ phạm tội hình sự thuộc phạm vi địa phương mình thông qua việc tiếp nhận tố giác và tin báo về tội phạm để báo cáo lên Viện kiểm sát nhân dân cấp trên; Viện kiểm sát nhân dân Tối cao tổng hợp số liệu chung trong cả nước. Báo cáo này thực hiện theo chế độ báo cáo thống kê hình sự liên ngành quy định tại Quyết định 06/LN (3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 1 năm).

+ Căn cứ thông tư này, Viện kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Nội vụ, Bộ Quốc phòng, Bộ Lâm nghiệp, Tổng cục Hải quan hướng dẫn thêm những vấn đề cụ thể để các đơn vị trong ngành mình thực hiện.

 

KT. VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO
PHÓ VIỆN TRƯỞNG

Hà Mạnh Trí

KT. BỘ TRƯỞNG BỘ NỘI VỤ
THỦ TRƯỞNG THƯỜNG TRỰC

Phạm Tâm Long

 

KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ QUỐC PHÒNG
THỨ TRƯỞNG

KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ LÂM NGHIỆP
THỨ TRƯỞNG

KT. TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC HẢI QUAN
PHÓ TỔNG CỤC TRƯỞNG

         

 

✔ Quý khách muốn được tư vấn chi tiết hơn hay có nhu cầu sử dụng dịch vụ của Văn phòng luật sư Tam Đa, vui lòng liên hệ:  (08) 3501.5156 – 0918.68.69.67 để được giải đáp.

HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA ĐIỀU 35 BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003

Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên trong khi tiến hành tố tụng hình sự. Đây là vấn đề mới, do đó, để bảo đảm việc thực hiện thống nhất và đạt được các yêu cầu chính trị, pháp luật, nghiệp vụ, từng bước củng cố, kiện toàn đội ngũ Điều tra viên của Cơ quan điều tra các cấp trong Công an nhân dân,

Văn phòng luật sư Tam Đa: Tư vấn luật Hình Sự  Tư vấn luật Đất đai  Tư vấn luật Thương mại  Tư vấn luật Đầu tư  Tư  vấn luật Lao động  Tư vấn thủ tục Ly Hôn  Dịch vụ Thành lập doanh nghiệp  Tranh tụng tại tòa về Hình sự – Dân sự – Kinh tế. Hãy gọi  cho chúng tôi để được cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất với chi phí hợp lý nhất! Đường dây nóng: 0918.68.69.67

 

BỘ CÔNG AN
******

CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
********

Số: 01/2006/TT-BCA(C11)

Hà Nội, ngày 12 tháng 01 năm 2006

THÔNG TƯ

HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA ĐIỀU 35 BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2003

Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 quy định nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của Điều tra viên trong khi tiến hành tố tụng hình sự. Đây là vấn đề mới, do đó, để bảo đảm việc thực hiện thống nhất và đạt được các yêu cầu chính trị, pháp luật, nghiệp vụ, từng bước củng cố, kiện toàn đội ngũ Điều tra viên của Cơ quan điều tra các cấp trong Công an nhân dân, Bộ Công an hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 như sau:

1. Về việc triệu tập và hỏi cung bị can; triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án; lấy lời khai người bị tạm giữ

1.1. Điều tra viên được phân công thụ lý chính điều tra vụ án được ký giấy triệu tập bị can tại ngoại để hỏi cung, triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án theo kế hoạch đã được Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công chỉ đạo điều tra vụ án duyệt. Việc triệu tập bị can, triệu tập và lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện theo quy định tại các điều 129, 133, 135, 136, 137 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

1.2. Điều tra viên được phân công thụ lý chính điều tra vụ án có quyền ký Phiếu yêu cầu trích xuất bị can đang bị tạm giam hoặc người đang bị tạm giữ trong trại tạm giam hoặc nhà tạm giữ để thực hiện các biện pháp điều tra như hỏi cung, nhận dạng, đối chất, thực nghiệm điều tra… hoặc lấy lời khai người bị tạm giữ. Nếu Điều tra viên thấy cần phải làm việc với các bị can, bị cáo của vụ án khác thì phải có ý kiến của Thủ trưởng cơ quan thụ lý vụ án đó.

Khi Điều tra viên có Phiếu yêu cầu trích xuất và Quyết định phân công Điều tra viên thụ lý vụ án thì trại tạm giam hoặc nhà tạm giữ phải trích xuất bị can đang bị tạm giam hoặc người đang bị tạm giữ, giao cho Điều tra viên để thực hiện các biện pháp điều tra như hỏi cung, nhận dạng, đối chất, thực nghiệm điều tra, v. v… hoặc lấy lời khai người bị tạm giữ.

1.3. Khi tiến hành triệu tập để lấy lời khai người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong các vụ án hình sự thuộc các đối tượng dưới đây thì Điều tra viên phải cân nhắc cụ thể từng trường hợp để đề xuất Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công chỉ đạo điều tra vụ án ký giấy triệu tập hoặc giấy mời đến trụ sở Cơ quan điều tra để lấy lời khai hoặc có thể lấy lời khai tại nơi ở, nơi làm việc:

– Những người có chức sắc trong các tôn giáo như: Giám mục, Linh mục trong đạo Thiên chúa; Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức trong Phật giáo; Mục sư, Giáo sư trong đạo Cao đài và người đứng đầu các tôn giáo khác;

– Người có danh tiếng trong xã hội hoặc trong các dân tộc ít người;

– Người là nhân sĩ, trí thức, văn nghệ sĩ có uy tín lớn trong nước và trên thế giới;

– Đối với người nước ngoài, việc triệu tập phải tuân theo các quy định của pháp luật có liên quan đến quan hệ ngoại giao và người nước ngoài;

– Đối với những người là cán bộ, đảng viên thuộc huyện ủy, tỉnh ủy quản lý, cán bộ, đảng viên cấp vụ, cục hoặc tương đương trở lên thuộc các bộ, ngành và cán bộ, đảng viên do Ban Bí thư quản lý thì khi tiến hành triệu tập để lấy lời khai được tiến hành như sau :

+ Đối với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện: Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện được phân công chỉ đạo điều tra vụ án ký giấy triệu tập hoặc giấy mời đối với người được triệu tập là cán bộ, đảng viên do huyện ủy quản lý. Nếu người được triệu tập là cán bộ, đảng viên do tỉnh ủy quản lý, cán bộ, đảng viên cấp vụ, cục hoặc tương đương trở lên thuộc các bộ, ngành và cán bộ, đảng viên do Ban Bí thư quản lý thì Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện được phân công chỉ đạo điều tra vụ án báo cáo Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để xin ý kiến trước khi ký giấy triệu tập hoặc giấy mời.

+ Đối với Cơ quan điều tra Công an cấp tỉnh: Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra Công an cấp tỉnh được phân công chỉ đạo điều tra vụ án ký giấy triệu tập hoặc giấy mời những người là cán bộ, đảng viên thuộc tỉnh ủy quản lý, cán bộ, đảng viên cấp vụ, cục hoặc tương đương trở lên thuộc các bộ, ngành. Nếu người được triệu tập là cán bộ, đảng viên do Ban Bí thư quản lý thì Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra Công an cấp tỉnh được phân công chỉ đạo điều tra vụ án báo cáo Giám đốc Công an tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để xin ý kiến trước khi ký giấy triệu tập hoặc giấy mời.

+ Đối với Cơ quan điều tra Bộ Công an: Điều tra viên báo cáo Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra ở Bộ được phân công chỉ đạo điều tra vụ án để xin ý kiến trước khi ký giấy triệu tập hoặc giấy mời đối với những người là cán bộ, đảng viên do huyện ủy, tỉnh ủy quản lý, Nếu người được triệu tập là cán bộ, đảng viên do Ban Bí thư quản lý thì Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công chỉ đạo điều tra vụ án báo cáo lãnh đạo Bộ để xin ý kiến trước khi ký giấy triệu tập hoặc giấy mời;

– Khi gặp và tiến hành lấy lời khai của những người tham gia tố tụng hình sự theo giấy triệu tập hoặc giấy mời, Điều tra viên phải có thái độ đúng mực, lịch sự, ứng xử có văn hóa trong hoạt động điều tra. Nghiêm cấm mọi hành vi hống hách, quan liêu, cửa quyền, lăng mạ, xúc phạm danh dự, uy tín, nhân phẩm của người được triệu tập đến Cơ quan điều tra để tiến hành lấy lời khai;

– Biên bản hỏi cung bị can do Điều tra viên lập theo quy định tại Điều 132 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Biên bản ghi lời khai người làm chứng, biên bản ghi lời khai ngươi bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án phải thực hiện theo đúng quy định tại các điều 95, 125, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

– Điều tra viên phải báo cáo ngay kết quả làm việc cho lãnh đạo Phòng ở Cơ quan điều tra Bộ Công an, lãnh đạo Đội ở Cơ quan điều tra Công an cấp tỉnh, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện hoặc Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra biết.

1.4. Giấy triệu tập là biểu mẫu tố tụng hình sự được sử dụng trong hoạt động tố tụng hình sự nên chỉ Cơ quan điều tra hoặc Cơ quan khác trong Công an nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mới được sử dụng. Việc sử dụng giấy triệu tập phải đúng mục đích, đúng đối tượng, đúng trình tự, thủ tục mà Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định. Giấy triệu tập bị can tại ngoại; giấy triệu tập hoặc giấy mời người làm chứng, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án đến Cơ quan điều tra để làm việc chỉ có giá trị làm việc trong một lần.

Nghiêm cấm lợi dụng việc sử dụng giấy triệu tập để giải quyết các việc không đúng mục đích, đối tượng, chức năng, thẩm quyền như lợi dụng việc ký, sử dụng giấy triệu tập gọi hỏi nhiều lần về các vấn đề không quan trọng, không liên quan đến vụ án hoặc hỏi đi hỏi lại về một vấn đề mà họ đã trình bày, v.v… làm ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ chức, làm mất uy tín cửa cơ quan, tổ chức, cá nhân. Nghiêm cấm Điều tra viên gọi điện thoại hoặc thông qua người khác để yêu cầu người được triệu tập đến làm việc mà không có giấy triệu tập hoặc giấy mời. Trước khi triệu tập hoặc mời thì Điều tra viên phải tính toán về thời gian, về việc đi lại của người được triệu tập để tránh gây phiền hà về thời gian hoặc đi lại nhiều lần của người được triệu tập hoặc được mời. Nếu người được triệu tập hoặc được mời ở quá xa trụ sở của Cơ quan điều tra thì có thể triệu tập hoặc mời họ đến trụ sở Công an nơi ở hoặc nơi làm việc của họ để lấy lời khai hoặc báo cáo đề xuất Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công chỉ đạo điều tra vụ án thực hiện việc ủy thác điều tra.

2. Việc quyết định áp giải bị can tại ngoại, quyết định dẫn giải người làm chứng

2.1. Việc áp giải bị can tại ngoại hoặc dẫn giải người làm chứng là vấn đề phức tạp, nhạy cảm và rất dễ bị phản ứng. Vì vậy, Điều tra viên phải xem xét rất thận trọng; chỉ nên áp dụng khi thật cần thiết để làm rõ các nội dung quan trọng của vụ án và trong các trường hợp họ cố tình vắng mặt không có lý do chính đáng.

2.2. Điều tra viên quy định tại điểm 1.1 mục 1 của Thông tư này có quyền ký quyết định áp giải bị can tại ngoại, quyết định dẫn giải người làm chứng theo điểm c khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. Quyết định áp giải bị can tại ngoại, quyết định dẫn giải người làm chứng được thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 129, Điều 130, Điều 133, Điều 134 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Điều tra viên phải báo cáo Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra trước khi quyết định việc áp giải bị can tại ngoại hoặc dẫn giải người làm chứng.

2.3. Điều tra viên phải phối hợp chặt chẽ với Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp cùng cấp để Thủ trưởng đơn vị Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp có trách nhiệm cử cán bộ thực hiện việc áp giải bị can tại ngoại, dẫn giải người làm chứng đến Cơ quan điều tra để Điều tra viên tiến hành làm việc theo quy định tại Thông tư số 15/2003/TT-BCA(V19) ngày 10 tháng 9 năm 2003 của Bộ Công an.

3. Về phân công nhiệm vụ, quyền hạn của Điều tra viên trong công tác khám nghiệm hiện trạng, khám nghiệm tử thi

3.1. Trong khi chờ quy định mới của Bộ Công an về vấn đề này thì công tác khám nghiệm hiện trường vẫn được thực hiện theo Quyết định số 57/2001/QĐ-BCA ngày 06 tháng 02 năm 2001 của Bộ Công an. Điều tra viên có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo và chủ trì công tác khám nghiệm hiện trường và chịu trách nhiệm về công tác khám nghiệm hiện trường. Để công tác khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi có hiệu quả, Cơ quan điều tra mời (hoặc trưng dụng) những người có kiến thức chuyên môn trong từng lĩnh vực cụ thể để tham gia khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi như cán bộ kỹ thuật hình sự, bác sĩ pháp y, Cảnh sát phòng cháy, chữa cháy, Cảnh sát giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, kỹ sư đường sắt, kỹ sư ngành hàng không v.v…

3.2. Đối với các vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp thì Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra được phân công chỉ đạo điều tra vụ án có thể trực tiếp chỉ đạo hoặc chủ trì công tác khám nghiệm hiện trường.

4. Về việc Điều tra viên sử dụng con dấu của Cơ quan điều tra

4.1. Các loại giấy triệu tập, giấy mời, quyết định áp giải bị can tại ngoại, quyết định dẫn giải người làm chứng, các biên bản về hoạt động điều tra do Điều tra viên được phân công điều tra vụ án lập và ký thì Điều tra viên được đóng dấu Cơ quan điều tra điều tra viên phải xuất trình Quyết định phân công Điều tra viên thụ lý vụ án cho văn thư trước khi đóng dấu vào các văn bản tố tụng có chữ ký của Điều tra viên; không đóng dấu treo vào các biên bản hoạt động điều tra do Điều tra viên lập và ký, các văn bản hoạt động điều tra nếu phô-tô thì không được đóng dấu Cơ quan điều tra). Sau khi đã phân công Điều tra viên thụ lý vụ án thì không phải ghi tên Thủ trưởng hoặc Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra vào biên bản hoạt động điều tra, nếu Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra không trực tiếp tiến hành các biện pháp điều tra đó; Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng Cơ quan điều tra không phải ký vào các biên bản hoạt động điều tra do Điều tra viên thực hiện.

4.2. Điều tra viên phải đăng ký chữ ký của mình với Văn phòng Cơ quan điều tra cùng cấp hoặc Đội điều tra tổng hợp thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an cấp huyện. Nếu Điều tra viên không đăng ký chữ ký thì không được đóng dấu Cơ quan điều tra.

Cán bộ điều tra chưa được bổ nhiệm làm Điều tra viên không được phân công trong Quyết định phân công Điều tra viên thụ lý vụ án, khi giúp việc cho Điều tra viên trong điều tra vụ án, cán bộ điều tra thực hiện theo kế hoạch điều tra và không được đóng dấu Cơ quan điều tra vào chữ ký của mình trong các biên bản hoạt động điều tra.

5. Hiệu lực của Thông tư

Thông tư này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Cục An ninh điều tra Bộ Công an và Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an giúp lãnh đạo Bộ kiểm tra, hướng dẫn việc tổ chức thực hiện Thông tư này ở Cơ quan điều tra các cấp trong Công an nhân dân.

Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc hoặc vấn đề mới nảy sinh, Cơ quan điều tra các cấp trong Công an nhân dân báo cáo về Bộ (qua Cục An ninh điều tra Bộ Công an và Văn phòng Cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an) để có hướng dẫn bổ sung kịp thời.

 

KT. BỘ TRUỞNG
THỨ TRƯỞNG

THƯỢNG TƯỚNG 

Lê Thế Tiệm

 

✔ Quý khách muốn được tư vấn chi tiết hơn hay có nhu cầu sử dụng dịch vụ của Văn phòng luật sư Tam Đa, vui lòng liên hệ:  (08) 3501.5156 – 0918.68.69.67 để được giải đáp.

HƯỚNG DẪN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG

“Chứng cứ quan trọng đối với vụ án” quy định tại khoản 1 Điều 168 và điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là chứng cứ quy định tại Điều 64 của BLTTHS dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.

Văn phòng luật sư Tam Đa: Tư vấn luật Hình Sự  Tư vấn luật Đất đai  Tư vấn luật Thương mại  Tư vấn luật Đầu tư  Tư  vấn luật Lao động  Tư vấn thủ tục Ly Hôn  Dịch vụ Thành lập doanh nghiệp  Tranh tụng tại tòa về Hình sự – Dân sự – Kinh tế. Hãy gọi  cho chúng tôi để được cung cấp dịch vụ pháp lý tốt nhất với chi phí hợp lý nhất! Đường dây nóng: 0918.68.69.67 

VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO – BỘ CÔNG AN – TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
——-

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
———

Số: 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC

Hà Nội, ngày 27 tháng 8 năm 2010

 

THÔNG TƯ LIÊN TỊCH

HƯỚNG DẪN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VỀ TRẢ HỒ SƠ ĐỂ ĐIỀU TRA BỔ SUNG

Để thi hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (sau đây viết tắt là BLTTHS) về trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Công an và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn như sau:

Điều 1. Chứng cứ quan trọng đối với vụ án

1. “Chứng cứ quan trọng đối với vụ án” quy định tại khoản 1 Điều 168 và điểm a khoản 1 Điều 179 BLTTHS là chứng cứ quy định tại Điều 64 của BLTTHS dùng để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS và nếu thiếu chứng cứ này thì không thể giải quyết vụ án được khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.

2. Thiếu chứng cứ sau đây là trường hợp thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án:

a) Chứng cứ để chứng minh “có hành vi phạm tội xảy ra hay không” là chứng cứ để xác định hành vi xảy ra đó có đủ yếu tố của cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ luật Hình sự hay thuộc các trường hợp không phải là hành vi phạm tội (phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, sự kiện bất ngờ, quan hệ dân sự, kinh tế, vi phạm hành chính…);

b) Chứng cứ để chứng minh “thời gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định nếu có hành vi phạm tội xảy ra thì xảy ra vào thời gian nào, ở đâu; phương pháp, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm như thế nào;

c) Chứng cứ để chứng minh “Ai là người thực hiện hành vi phạm tội” là chứng cứ xác định một con người cụ thể đã thực hiện hành vi phạm tội đó;

d) Chứng cứ để chứng minh “có lỗi hay không có lỗi” là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội có lỗi hay không có lỗi; nếu có lỗi thì thuộc trường hợp lỗi cố ý (lỗi cố ý trực tiếp hay lỗi cố ý gián tiếp) hoặc lỗi vô ý (lỗi vô ý do quá tự tin hay lỗi vô ý do cẩu thả) theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 Bộ luật hình sự;

đ) Chứng cứ để chứng minh “có năng lực trách nhiệm hình sự hay không” là chứng cứ xác định khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội đã đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hay chưa; có mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình hay không và nếu có thì mắc bệnh đó vào thời gian nào, trong giai đoạn tố tụng nào;

e) Chứng cứ để chứng minh “mục đích, động cơ phạm tội” là chứng cứ xác định người thực hiện hành vi phạm tội với mục đích, động cơ gì và trong trường hợp mục đích, động cơ phạm tội là yếu tố tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc là yếu tố (tình tiết) của cấu thành tội phạm hoặc là yếu tố (tình tiết) định khung hình phạt;

g) Chứng cứ để chứng minh tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định bị can, bị cáo có tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 46 của Bộ luật hình sự; có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 48 của Bộ luật hình sự hoặc là chứng cứ xác định tình tiết định khung hình phạt;

h) Chứng cứ để chứng minh những đặc điểm về nhân thân của bị can, bị cáo là chứng cứ xác định lý lịch tư pháp của bị can, bị cáo;

i) Chứng cứ để chứng minh “tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra” là chứng cứ để đánh giá tính chất, hậu quả (vật chất và phi vật chất) của hành vi phạm tội trong việc xác định tội phạm và quyết định hình phạt;

k) Chứng cứ khác để chứng minh một hoặc nhiều vấn đề quy định tại Điều 63 của BLTTHS mà thiếu chứng cứ đó thì không có đủ căn cứ để giải quyết vụ án, như: Chứng cứ để xác định chính xác tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc xác định chính xác tuổi của người bị hại là trẻ em; chứng cứ để chứng minh vị trí, vai trò của từng bị can, bị cáo trong trường hợp đồng phạm hoặc phạm tội có tổ chức…

3. Điều kiện để trả hồ sơ điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án:

a) Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thiếu chứng cứ quan trọng đối với vụ án được hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 Điều này nếu Viện kiểm sát không thể tự mình bổ sung được;

b) Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa (trong giai đoạn chuẩn bị xét xử), Hội đồng xét xử (tại phiên tòa) ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi cần xem xét thêm những chứng cứ quan trọng đối với vụ án được hướng dẫn tại khoản 1, khoản 2 Điều này mà xét thấy không thể bổ sung tại phiên tòa được;

c) Không trả hồ sơ nếu là chứng cứ quan trọng nhưng nếu thiếu cũng truy tố, xét xử được hoặc không thể thu thập được. Ví dụ 1: Có 3 người làm chứng nhưng chỉ xác định được 2 người. Ví dụ 2: Hiện trường đã bị thay đổi không thể xem xét lại được hay vật chứng đã mất không thể tìm được.

Điều 2. Căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác

1.”Có căn cứ để khởi tố bị can về một tội phạm khác hoặc có người đồng phạm khác” quy định tại khoản 2 Điều 168 của BLTTHS khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Khởi tố và điều tra về một hay nhiều tội nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;

b) Ngoài tội phạm đã khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can về một hoặc nhiều tội khác;

c) Ngoài bị can đã bị khởi tố và điều tra, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác có liên quan đến vụ án nhưng chưa được khởi tố bị can.

2. Viện kiểm sát không trả hồ sơ để điều tra bổ sung nếu có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 117 của BLTTHS.

Điều 3. Căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác

1. “Có căn cứ để cho rằng bị cáo phạm một tội khác hoặc có đồng phạm khác” quy định tại điểm b khoản 1 Điều 179 của BLTTHS khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Viện kiểm sát truy tố về một hay nhiều tội, nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy hành vi của bị can (bị cáo) đã thực hiện cấu thành một hay nhiều tội khác;

b) Ngoài tội phạm đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có căn cứ để khởi tố bị can (bị cáo) về một hay nhiều tội khác;

c) Ngoài bị can (bị cáo) đã bị truy tố, chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy còn có người đồng phạm khác hoặc có người phạm tội khác liên quan đến vụ án, nhưng chưa được khởi tố bị can.

2. Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Trường hợp thuộc điểm a khoản 1 Điều này, nhưng chứng cứ trong hồ sơ vụ án cho thấy có thể xét xử bị can (bị cáo) về một hay nhiều tội tương ứng bằng hay nhẹ hơn hoặc có thể xét xử bị can (bị cáo) ít tội hơn số tội mà Viện kiểm sát truy tố;

b) Đã có quyết định tách vụ án hoặc chưa có quyết định tách vụ án của Cơ quan điều tra nhưng có căn cứ để tách vụ án theo quy định tại khoản 2 Điều 117 của BLTTHS.

Điều 4. Vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng

1. “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” quy định tại khoản 3 Điều 168 và điểm c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS là trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ các trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định đã xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng hoặc làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và toàn diện của vụ án.

2. Những trường hợp sau đây được coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng hình sự:

a) Lệnh, quyết định của Cơ quan điều tra và cơ quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra mà theo quy định của BLTTHS phải có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, nhưng đã không có phê chuẩn của Viện kiểm sát hoặc việc ký lệnh, quyết định tố tụng không đúng thẩm quyền;

b) Không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị cáo theo quy định tại khoản 2 Điều 57 của BLTTHS;

c) Xác định không đúng tư cách tham gia tố tụng của người tham gia tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử dẫn đến xâm hại nghiêm trọng quyền và lợi ích hợp pháp của họ;

d) Khởi tố vụ án hình sự nhưng không có yêu cầu của người bị hại hoặc của người đại diện hợp pháp của người bị hại theo quy định tại khoản 1 Điều 105 của BLTTHS;

đ) Nhập vụ án hoặc tách vụ án không có căn cứ và trái với quy định tại Điều 117 của BLTTHS;

e) Không giao các lệnh, quyết định tố tụng cho bị can, bị cáo theo đúng quy định của pháp luật xâm phạm đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo;

g) Chưa điều tra, lập lý lịch của bị can; chưa xác định được những đặc điểm quan trọng về nhân thân của người có hành vi phạm tội (tuổi, tiền án, tiền sự của bị can, bị cáo);

h) Không có người phiên dịch cho người tham gia tố tụng trong trường hợp họ không sử dụng được tiếng Việt hoặc họ là người câm, điếc theo quy định tại Điều 61 của BLTTHS;

i) Không từ chối tiến hành tố tụng hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng trong các trường hợp quy định tại Điều 42, Điều 60 và Điều 61 của BLTTHS;

k) Việc điều tra, thu thập chứng cứ quan trọng đối với vụ án không đúng trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS nên không có giá trị chứng minh trong vụ án hình sự;

l) Chứng cứ, tài liệu quan trọng đối với vụ án đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố nhưng không đưa vào hồ sơ vụ án hoặc bị sửa chữa, thêm bớt làm sai lệch hồ sơ vụ án;

m) Việc điều tra, truy tố không đúng thẩm quyền, trừ trường hợp cơ quan có thẩm quyền phân công điều tra vụ án cụ thể;

n) Có căn cứ để xác định có việc mớm cung, bức cung, nhục hình trong quá trình tiến hành tố tụng hình sự làm cho lời khai của bị can không đúng sự thật;

o) Khiếu nại, tố cáo của bị can, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không được giải quyết theo đúng quy định của pháp luật đã xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích của họ;

p) Những trường hợp khác được xác định theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều này nhưng phải ghi rõ trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

3. Viện kiểm sát, Tòa án không trả hồ sơ để điều tra bổ sung mặc dù “có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” theo hướng dẫn tại khoản 1 và được cụ thể hóa tại khoản 2 Điều này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

a) Có vi phạm thủ tục tố tụng, nhưng không xâm hại nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người tham gia tố tụng;

b) Bị can (bị cáo) là người chưa thành niên trong giai đoạn điều tra nhưng đến khi truy tố, xét xử bị can (bị cáo) đã đủ 18 tuổi.

Điều 5. Trả hồ sơ và thời hạn điều tra bổ sung

1. Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong thời hạn quyết định truy tố quy định tại khoản 1 Điều 166 của BLTTHS. Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa ra quyết định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung trong thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 2 Điều 176 của BLTTHS. Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải theo đúng quy định tại khoản 2 Điều 199 của BLTTHS.

2. Để không trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần, Viện kiểm sát, Tòa án phải nghiên cứu toàn diện hồ sơ vụ án để phát hiện các trường hợp phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung và phải kịp thời ra quyết định, không được để hết thời hạn quyết định truy tố hoặc hết thời hạn chuẩn bị xét xử mới ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

3. Thời hạn điều tra bổ sung được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 121 của BLTTHS; cụ thể là thời hạn do Viện kiểm sát trả hồ sơ không quá hai tháng; do Tòa án trả hồ sơ không quá một tháng tính từ ngày Cơ quan điều tra nhận lại hồ sơ vụ án và quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung đến khi Cơ quan điều tra có bản kết luận điều tra bổ sung.

Điều 6. Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung

1. Việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ra quyết định bằng văn bản và do người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật ký.

2. Trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung phải ghi số, ngày, tháng, năm và lần trả hồ sơ (thứ nhất hoặc thứ hai). Trong phần nội dung phải ghi cụ thể “những chứng cứ quan trọng đối với vụ án” cần phải điều tra bổ sung, “tội phạm khác hoặc người đồng phạm khác” phải khởi tố, truy tố hoặc “những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng” cần được khắc phục và nêu rõ căn cứ pháp luật quy định tại một trong các khoản 1, 2 và 3 Điều 168 hoặc một trong các điểm a, b và c khoản 1 Điều 179 của BLTTHS.

3. Trong trường hợp tiếp tục phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thì trong Quyết định phải nêu rõ những vấn đề yêu cầu điều tra bổ sung lần trước chưa được điều tra bổ sung hoặc đã điều tra bổ sung nhưng chưa đạt yêu cầu hoặc từ kết quả điều tra bổ sung làm phát sinh vấn đề mới cần điều tra.

Điều 7. Thực hiện quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung

1. Cơ quan điều tra có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các yêu cầu nêu trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát theo quy định tại Điều 114 của BLTTHS; nếu thấy quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát không có căn cứ theo hướng dẫn tại các điều 1, 2 và 4 của Thông tư này thì sau khi nhận hồ sơ vụ án Cơ quan điều tra phải có văn bản nêu rõ lý do, quan điểm đối với việc giải quyết vụ án và chuyển lại hồ sơ cho Viện kiểm sát.

2. Sau khi nhận được hồ sơ vụ án và quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án, nếu thấy quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án có căn cứ mà không thể tự mình bổ sung được thì Viện kiểm sát ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung và chuyển ngay hồ sơ cho Cơ quan điều tra để tiến hành điều tra; nếu thấy quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án không có căn cứ theo hướng dẫn tại các điều 1, 3 và 4 Thông tư này thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án để đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 179 của BLTTHS.

3. Sau khi kết thúc điều tra bổ sung, Cơ quan điều tra phải có bản kết luận điều tra bổ sung, trong đó kết luận rõ đối với từng vấn đề điều tra bổ sung và quan điểm giải quyết vụ án. Nếu kết quả điều tra bổ sung dẫn đến đình chỉ điều tra, đình chỉ vụ án thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát ra quyết định đình chỉ theo thẩm quyền quy định tại Điều 164 và Điều 169 của BLTTHS.

4. Nếu kết quả điều tra bổ sung không làm thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát có văn bản nêu rõ lý do giữ nguyên quyết định truy tố và chuyển lại hồ sơ cho Tòa án; nếu kết quả điều tra bổ sung làm thay đổi quyết định truy tố thì Viện kiểm sát ban hành cáo trạng mới thay thế cáo trạng cũ và chuyển hồ sơ đến Tòa án để xét xử.

Điều 8. Phối hợp giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra trong giai đoạn điều tra

1. Nhằm hạn chế việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra phải phối hợp chặt chẽ ngay từ khi tiếp nhận, phân loại, xử lý tố giác, tin báo về tội phạm và trong suốt quá trình điều tra vụ án. Điều tra viên phải chủ động gửi đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được cho Kiểm sát viên thụ lý vụ án và thực hiện đầy đủ các yêu cầu điều tra của Viện kiểm sát. Kiểm sát viên phải thường xuyên theo dõi, nắm chắc tiến độ điều tra vụ án, nghiên cứu kỹ các tài liệu, chứng cứ do Điều tra viên đã thu thập, kịp thời đề ra yêu cầu điều tra, chủ động phối hợp với Điều tra viên để điều tra làm rõ những vấn đề cần chứng minh ngay trong giai đoạn điều tra vụ án; đồng thời kiểm sát chặt chẽ các hoạt động điều tra và việc lập hồ sơ vụ án của Cơ quan điều tra, bảo đảm việc điều tra vụ án khách quan, toàn diện, đúng pháp luật.

2. Trước khi kết thúc điều tra vụ án ít nhất mười ngày, Điều tra viên và Kiểm sát viên phải phối hợp để đánh giá các chứng cứ, tài liệu đã thu thập, bảo đảm đầy đủ, hợp pháp; nếu phát hiện còn thiếu chứng cứ, vi phạm thủ tục tố tụng hoặc còn bỏ lọt tội phạm, người phạm tội khác thì phải bổ sung, khắc phục ngay trong giai đoạn điều tra. Đối với những vụ án đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp trước khi kết thúc điều tra vụ án, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát phải tiến hành sơ kết, đánh giá toàn diện kết quả điều tra vụ án, chỉ đạo điều tra giải quyết những vấn đề còn mâu thuẫn, tồn tại và quyết định việc kết thúc điều tra, hướng xử lý vụ án theo đúng theo quy định của pháp luật.

Điều 9. Phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án trong giai đoạn truy tố

1. Sau khi nhận hồ sơ vụ án và bản kết luận điều tra, Kiểm sát viên phải nghiên cứu thật kỹ hồ sơ, kiểm tra việc tuân thủ các thủ tục tố tụng, tính đầy đủ của các tài liệu, chứng cứ trong vụ án. Trong trường hợp cần thiết, Kiểm sát viên phải trực tiếp hỏi cung tổng hợp đối với từng bị can trong vụ án. Nếu thấy còn thiếu chứng cứ, tài liệu hoặc có vi phạm thủ tục tố tụng mà tự mình có thể bổ sung được thì Kiểm sát viên phối hợp với Điều tra viên để bổ sung, khắc phục kịp thời; trường hợp không thể bổ sung được thì Kiểm sát viên phải báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát hoặc Thủ trưởng đơn vị để xem xét, quyết định.

2. Trong thời hạn truy tố, nếu thấy vụ án có những vấn đề phức tạp về chứng cứ, tội danh, Kiểm sát viên báo cáo Lãnh đạo Viện kiểm sát hoặc Thủ trưởng đơn vị để trao đổi với Cơ quan điều tra, Tòa án về hướng giải quyết vụ án.

3. Nếu thấy việc điều tra bổ sung phức tạp, Viện kiểm sát chủ động tổ chức họp liên ngành để làm rõ những vấn đề cần phải điều tra bổ sung nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung đúng trọng tâm, triệt để và kịp thời.

4. Trong trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp không thống nhất được với nhau về việc điều tra bổ sung, thì cơ quan tố tụng đang thụ lý hồ sơ vụ án phải thay mặt lãnh đạo liên ngành báo cáo lãnh đạo liên ngành cấp trên xem xét cho ý kiến về việc giải quyết vụ án.

Điều 10. Phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong giai đoạn xét xử

1. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, sau khi nghiên cứu hồ sơ thấy còn thiếu những chứng cứ quan trọng, có vi phạm thủ tục tố tụng, bị can phạm vào tội khác hoặc có đồng phạm khác, thì Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa trao đổi với Kiểm sát viên để có biện pháp khắc phục kịp thời hoặc có thể bổ sung được tại phiên tòa mà không phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Nếu Kiểm sát viên và Thẩm phán chưa thống nhất ý kiến, thì báo cáo lãnh đạo liên ngành xem xét cho ý kiến về việc giải quyết vụ án.

2. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên chủ động phối hợp với Hội đồng xét xử làm rõ những chứng cứ liên quan đến việc giải quyết đúng đắn vụ án hình sự. Trong trường hợp phát sinh những vấn đề mới hoặc phức tạp mà không bổ sung được, thì Hội đồng xét xử ra quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

3. Đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra và giao cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử sơ thẩm nếu phát hiện có căn cứ để trả hồ sơ điều tra bổ sung thì Viện kiểm sát cấp dưới trao đổi với Tòa án cùng cấp để làm rõ những vấn đề điều tra bổ sung trước khi Viện kiểm sát cấp dưới báo cáo với Viện kiểm sát cấp trên xem xét, quyết định.

Điều 11. Quản lý việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung

1. Các cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm quản lý việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung ở cấp mình. Viện kiểm sát có trách nhiệm quản lý về số vụ, số lần trả hồ sơ để điều tra bổ sung của các cơ quan tiến hành tố tụng cùng cấp. Viện kiểm sát cấp tỉnh có trách nhiệm tổng hợp, đánh giá tình hình trả hồ sơ để điều tra bổ sung của cơ quan tiến hành tố tụng cấp tỉnh và cấp huyện thuộc địa phương quản lý.

2. Định kỳ (hàng tháng, hàng quý, sáu tháng, một năm) từng cơ quan tiến hành tố tụng phải tự đánh giá, xác định số vụ trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong đó, phải phân tích lý do trả hồ sơ để điều tra bổ sung về chứng cứ, về tố tụng hoặc liên quan đến việc khởi tố vụ án, bị can (thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố); số vụ trả có căn cứ, số vụ trả không có căn cứ; nguyên nhân và trách nhiệm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và những người tiến hành tố tụng trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

3. Cách tính tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát, Tòa án như sau:

a) Tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát bằng số vụ án hình sự do Viện kiểm sát đã quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung có căn cứ trên tổng số vụ Cơ quan điều tra đã có kết luận điều tra chuyển hồ sơ đến Viện kiểm sát đề nghị truy tố (bao gồm cả số vụ kết thúc điều tra cũ chưa giải quyết và số vụ mới);

Ví dụ: Năm 2009 Viện kiểm sát tỉnh H đã có quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung 9 vụ được Cơ quan điều tra chấp nhận trong tổng số 150 vụ (cũ 10 vụ, mới 140 vụ) mà Cơ quan điều tra đã có kết luận điều tra chuyển hồ sơ đề nghị Viện kiểm sát truy tố, thì tỷ lệ trả hồ sơ điều tra bổ sung của Viện kiểm sát đối với Cơ quan điều tra là 6% (9 vụ: 150 vụ x 100%).

b) Tỷ lệ trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Tòa án bằng số vụ án hình sự do Tòa án đã quyết định trả hồ sơ để yêu cầu điều tra bổ sung có căn cứ trên tổng số vụ Viện kiểm sát đã truy tố và chuyển hồ sơ đến Tòa án để xét xử (bao gồm cả số vụ truy tố cũ chưa giải quyết và số vụ truy tố mới);

Ví dụ: Năm 2009 Tòa án đã có quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung 5 vụ được Viện kiểm sát chấp nhận trong tổng số 100 vụ (cũ 10 vụ mới 90 vụ) mà Viện kiểm sát nhân dân đã truy tố và chuyển hồ sơ đến Tòa án để xét xử, thì tỷ lệ trả hồ sơ điều tra bổ sung của Tòa án đối với Viện kiểm sát là 5% (5 vụ: 100 vụ x 100%).

c) Trường hợp cùng một vụ án nhưng Viện kiểm sát, Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhiều lần, thì tính là 01 vụ và phân tích là trả nhiều lần;

d) Trường hợp vụ án do Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, sau đó Viện kiểm sát lại trả hồ sơ yêu cầu Cơ quan điều tra bổ sung theo yêu cầu của Tòa án, thì tính là 01 vụ và phân tích là trả 01 lần (vụ án được tính do Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung).

Điều 12. Xác định trách nhiệm trong việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung

1. Trách nhiệm thuộc Cơ quan điều tra, Điều tra viên trong những trường hợp sau đây:

a) Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ, kịp thời yêu cầu điều tra hoặc quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung của Viện kiểm sát dẫn đến vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với những vấn đề mà Viện kiểm sát đã yêu cầu điều tra;

b) Không cung cấp đầy đủ, kịp thời chứng cứ, tài liệu liên quan theo quy định của pháp luật trong quá trình điều tra vụ án theo yêu cầu của Kiểm sát viên làm cho Kiểm sát viên không nắm được nội dung vụ án để kịp thời đề ra yêu cầu điều tra dẫn đến Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với vụ án.

2. Trách nhiệm thuộc Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong những trường hợp sau đây:

a) Không đề ra yêu cầu điều tra hoặc trả hồ sơ để điều tra bổ sung đối với những vấn đề có thể phát hiện được dẫn đến sau đó vụ án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung;

b) Quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ pháp luật và Cơ quan điều tra có văn bản giữ nguyên kết luận điều tra, sau đó Viện kiểm sát quyết định truy tố như đề nghị của Cơ quan điều tra.

3. Trách nhiệm thuộc Thẩm phán hoặc Hội đồng xét xử trong trường hợp quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung không có căn cứ pháp luật và Viện kiểm sát có văn bản giữ nguyên quyết định truy tố, sau đó Tòa án xét xử vụ án như đề nghị của Viện kiểm sát.

4. Khi có trường hợp được hướng dẫn tại khoản 1, 2 và 3 Điều này, Lãnh đạo cơ quan tiến hành tố tụng tổ chức kiểm điểm, xác định trách nhiệm cụ thể của từng người tiến hành tố tụng ở mỗi cấp có liên quan đến việc trả hồ sơ để điều tra bổ sung để xem xét, xử lý theo quy định của pháp luật và có biện pháp khắc phục.

Điều 13. Điều khoản thi hành

Thông tư này có hiệu lực sau 45 ngày, kể từ ngày đăng Công báo. Những hướng dẫn trước đây của Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao trái với những hướng dẫn tại Thông tư này đều bãi bỏ.

Trong quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc cần hướng dẫn thì từng ngành ở địa phương phản ánh cho cơ quan cấp trên là Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao để thống nhất có giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời./.

 

KT. CHÁNH ÁN
TÒA ÁN NHÂN DÂN
TỐI CAO
PHÓ CHÁNH ÁN
THƯỜNG TRỰC

Đặng Quang Phương

KT. BỘ TRƯỞNG
BỘ CÔNG AN
THỨ TRƯỞNG

Thượng tướng
Lê Thế Tiệm

KT. VIỆN TRƯỞNG
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TỐI CAO
PHÓ VIỆN TRƯỞNG

Hoàng Nghĩa Mai

 

 

✔ Quý khách muốn được tư vấn chi tiết hơn hay có nhu cầu sử dụng dịch vụ của Văn phòng luật sư Tam Đa, vui lòng liên hệ:  (08) 3501.5156 – 0918.68.69.67 để được giải đáp.